Friday, September 22, 2017

Tại sao người Do thái Sáng Tạo Hơn người Châu Á người Á Đông ?

Người Do thái Sáng Tạo Hơn người Châu Á người Á Đông ?
Vì sao người Do thái Sáng Tạo Hơn người Á Đông

Vì sao một người Do thái có khả năng để đạt giải Nobel gấp 625 lần hơn một người Châu Á ? Điều đó không liên quan gì đến chỉ số thông minh IQ

Nghiên cứu của tôi cho thấy một người Do thái có khả năng để đạt giải Nobel gấp 625 lần hơn một người Á Đông ?

Vì sao vậy ?
Có liên quan gì đến chỉ số trí tuệ IQ không ?
Có liên quan gì đến cách người Do Thái dạy dỗ trong gia đình ?

Đánh lẽ ra thì các tiêu chuẩn học thuật cao cấp của nền văn hoá Á Đông sẽ tạo ra số lượng lớn hàng loạt các nhà phát minh sáng chế ?

Sự sáng tạo là quá trình tạo ra cái gì đó độc đáo và có ích, và sự thành công của quá trình sáng tạo là sự sáng chế phát minh. Giải Nobel là biểu tượng của thành tựu phát minh sáng chế.

Người Do Thái dân số ít hơn 0.2% tổng dân số nhân loại nhưng có khoảng 23% người chiến thắng giải Nobel. Bao gồm cả người thắng giải Nobel gần đây là Bob Dylan

Ngược lại, người Châu Á người Á Đông chiếm 23% tổng dân số thế giới nhưng chỉ có 4% người Đông Á chiến thắng giải Nobel.

Xét về quy mô dân số, tỷ lệ những người đoạt giải Nobel Kinh tế của người Do Thái là trên 115, nhưng tỷ lệ người Châu Á ít hơn 0,2. Theo thống kê, một người Do Thái có khả năng giành được giải Nobel hơn 625 lần so với người Châu Á.

Thực tế, người Do Thái tỏa sáng tốt trong tất cả các thành tựu sáng tạo.

Ví dụ: dân Do Thái đẻ ra một số nhạc sĩ người Do Thái vĩ đại nhất của thế kỷ 20: hơn 25% nhạc trưởng, 40% nghệ sĩ dương cầm, 50% nghệ sĩ trung hồ cầm cello và 65% nghệ sĩ vĩ cầm violin.
Người Do Thái có đôi mắt màu xanh biển
trẻ em người do thái thiếu nhi người do thái nhi đồng người do thái xếp hàng tàu xe lửa
Nhiều người cho rằng người Do Thái thành công trong lĩnh vực sáng tạo vì họ có chỉ số IQ cao hơn. Nghiên cứu của tôi không ủng hộ khẳng định này.

Ngoài nghiên cứu về lịch sử Do Thái, văn hoá Do Thái và giáo dục Do Thái, tôi đã phỏng vấn và theo dõi người Do Thái và sinh sống cùng gia đình Do Thái trong ba năm.

Tôi đã nghiên cứu các văn bản Do Thái có ảnh hưởng, viếng thăm các nhà thờ và tham dự các buổi lễ Do Thái và ngày lễ Do Thái.

Tôi quyết tâm khám phá các tính năng độc đáo có thể ảnh hưởng đến sự sáng tạo.

Khi tôi bắt đầu nghiên cứu, tôi không biết gì về văn hoá Do Thái.

Sau đó tôi đã học được rằng, nói chung, người Mỹ coi đó là điều cấm kỵ để đánh giá hoặc đưa ra nhận xét về người Do Thái.

Người Mỹ coi đó là điều cấm kỵ để đánh giá hoặc đưa ra nhận xét về người Do Thái

Nhưng vì tôi là người Hàn Quốc, tôi chưa bao giờ biết điều này.

Là một nhà nghiên cứu, sự không quen thuộc của tôi về điều cấm kỵ này đã giúp tôi duy trì tính khách quan của tôi.

Những phát hiện của tôi về sự khác biệt giữa việc dạy dỗ con cái con cháu của người Do Thái và người Á Châu đã gây ra nhiều tranh cãi, và trì hoãn việc xuất bản cuốn sách của tôi, The Creativity Challenge: How We Can Recapture American Innovation, một vài năm nữa.

Nhiều người cho rằng người Do Thái thành công trong lĩnh vực sáng tạo vì họ có chỉ số IQ cao. Tuy nhiên, nghiên cứu của tôi không ủng hộ khẳng định này. Tôi thấy rằng người Châu Á và người Do Thái có chỉ số IQ tương đương.

Người Châu Á và người Do Thái có chỉ số IQ tương đương

Tôi cũng nhận thấy rằng cả những người sáng tạo thành công lẫn những người ít sáng tạo đều được tạo ra bởi khí hậu của họ. Nghiên cứu sâu rộng của tôi đã kết hợp lại thành một khuôn khổ, mà tôi gọi là CATs.

CATs là ba bước thiết thực cho sự sáng tạo có thể đạt được trong bất kỳ nền văn hoá nào.
Đó là: tu luyện Sáng tạo Khí hậu (bước 1); nuôi dưỡng thái độ sáng tạo (bước 2); và phát triển kỹ năng tư duy sáng tạo (bước 3).

Đáng ngạc nhiên, phần quan trọng nhất của một quá trình sáng tạo là khí hậu. Các khí hậu của các cá nhân bao gồm văn hoá, điều kiện vật lý và tâm lý, mối quan hệ giữa các cá nhân, quá trình phát triển và những thành kiến ​​đang có. Tất cả các khía cạnh của khí hậu ảnh hưởng sâu sắc đến cách mọi người suy nghĩ và có tiềm năng khuyến khích hoặc làm nản lòng hành vi sáng tạo. May mắn, khí hậu là phần mà chúng ta có thể kiểm soát nhiều nhất.

Trong khuôn khổ CATs, ưu tiên nuôi dạy con cái của người Do Thái là rất hiệu quả trong việc phát triển khí hậu sáng tạo nuôi dưỡng thái độ sáng tạo và kỹ năng tư duy của trẻ.

Người Do Thái nuôi dưỡng khí hậu sáng tạo bằng cách đặt ra những kỳ vọng cao và cung cấp những thách thức cho con cái của họ bao gồm đưa ra nhận xét thẳng thắn với sự rõ ràng và cụ thể.
Để đối phó với các mối đe dọa khủng khiếp mà người Do Thái phải đối mặt, Người Do Thái đã trở nên kiên cường và thể hiện niềm tin rằng "Cái gì không giết chết bạn sẽ khiến bạn mạnh mẽ hơn.

Người Do Thái phát triển thái độ sáng tạo của trẻ như độc lập, tự tin (sự tự tin thực sự là biết được thế mạnh cụ thể của chính bản thân họ), khả năng phục hồi và chấp nhận rủi ro mạo hiểm chơi liều.

Hơn nữa, thay vì tập trung vào bi kịch, người Do Thái đã biến nó thành sự ủng hộ rộng rãi cho công lý xã hội. Thái độ này củng cố tư duy lớn qua lòng nhân ái.

Cha mẹ người Do Thái có xu hướng cung cấp cho trẻ em Do Thái một mô hình để tìm hiểu và đặt câu hỏi để mở rộng sự tò mò hiếu kỳ của trẻ em người Do Thái.
Cha mẹ Do Thái và giáo viên người Do Thái nuôi dưỡng thái độ sáng tạo của trẻ như thái độ cởi mở, tính cộng đồng và sự thông minh, bằng cách cung cấp cho họ nhiều nguồn lực và kinh nghiệm.

Thật không may trong suốt lịch sử, người Do Thái đã buộc phải trốn khỏi nhà cửa và đất nước. Tuy nhiên, điều này cho phép họ tiếp xúc với đa dạng các chủng người, văn hoá, khu vực, ngôn ngữ, tôn giáo, và nghệ thuật khác nhau.

Những kinh nghiệm này đã mở ra những suy nghĩ của người Do Thái với những quan điểm, ý tưởng và cách sống khác, tăng khả năng tư duy sáng tạo.
Một chàng trai trẻ tuổi người do thái mặc quần áo màu đen và áo sơ mi trắng

Trong khi nuôi dưỡng trẻ thơ Do Thái những giá trị bản sắc Do Thái, Phụ huynh Do thái và thầy giáo Do thái nuôi dưỡng bản sắc văn hoá Do Thái bằng cách dạy cho họ về những điểm giống nhau và khác biệt giữa các nền văn hoá trong khi củng cố mong muốn duy trì bản sắc truyền thống Do Thái của họ.

Các cộng đồng người Do Thái đã phát triển các lớp học, hệ thống trường học, và các chuyến đi ngắn hạn và dài hạn đến quê hương của họ ở Israel. Nhận dạng văn hoá cho phép tạo ra nhiều quan điểm, những suy nghĩ phức tạp, và quan điểm của một người ngoài cuộc, giúp nâng cao kỹ năng tư duy sáng tạo.
Một chàng trai người Do Thái người Tóc Đỏ

Hơn nữa, nghiên cứu cho thấy rằng người Do Thái có khuynh hướng kết hôn muộn hơn so với những người không phải là người Do Thái.

Người Do Thái có nhiều tài chính và tình cảm hơn khi có con cái, giúp họ cung cấp cho con của họ các nguồn lực đa dạng.

Người Do Thái cũng dạy con cái của họ sớm hơn về cách tìm tòi và sử dụng các nguồn như sách vở, nghệ thuật, thư viện, viện bảo tàng và nguồn nhân lực, qua đó nuôi dưỡng sự tháo vát của trẻ em Do Thái.

Cha mẹ người Do Thái / thầy giáo người Do thái nuôi dưỡng thái độ sáng tạo của trẻ như sự tò mò hiếu kỳ, tính lạc quan và ý tưởng lớn bằng cách cung cấp cho thiếu nhi Do Thái nguồn cảm hứng và động viên. Họ có xu hướng cung cấp cho nhi đồng Do Thái một mô hình để tìm hiểu và đặt câu hỏi mở rộng sự tò mò của trẻ em người Do Thái.

Người Do Thái nuôi dưỡng tình yêu của thiếu nhi người Do Thái để đọc sớm và được biết đến như là "Dân tộc của Sách". Hơn nữa, người Do Thái nhấn mạnh Tikkun olam - sửa chữa thế giới - dạy cho con cái của họ để lại cho thế giới một nơi tốt hơn là tìm kiềm điều đó, tạo ra sự rộng lượng như một qui tắc.

Nghiên cứu cho thấy các gia đình Do Thái làm từ thiện nhiều hơn và cho một số tiền lớn hơn các gia đình tôn giáo khác hoặc các gia đình không tôn giáo - bất kể mức thu nhập hay mức độ giàu có của họ.
Nghiên cứu cho thấy các gia đình người Do Thái từ thiện nhìu hơn và cho một số tiền lớn hơn các gia đình đạo khác hoặc các gia đình vô tôn giáo - bất kể mức thu nhập hay mức độ giàu có của họ.

Người Do Thái chiếm ít hơn 2% dân số Mỹ, nhưng họ chiếm 30% số người hiến tủy và hiến các bộ phận cơ thể để làm từ thiện nhiều nhất. Điều này củng cố sự lạc quan cho con trẻ Do Thái, tư duy hình ảnh lớn và lòng vị tha, các yếu tố chủ chốt cho sự đổi mới và sáng tạo.

Cha mẹ dân Do Thái và thầy giáo dân Do Thái có xu hướng nuôi dưỡng cảm xúc, tính tự chủ, vô kỷ luật và tính thích thách thức của trẻ em Do Thái bằng cách cung cấp cho con nít Do Thái sự tự do để được một mình và độc nhất.
Ngâm cứu cho thấy cha mẹ dân tộc Do Thái và thầy giáo dân tộc Do Thái ủng hộ sự tự biểu hiện của trẻ; sự tò mò hiếu kỳ, sở thích và quan tâm của thiếu nhi Do Thái về cách thức và lý do tại sao mọi thứ xảy ra; và lập luận, chứ không phải là sự sạch sẽ, trật tự, quy tắc và cách cư xử tốt.

Cùng với bản sắc văn hoá Do Thái đã nuôi dưỡng sự vô kỷ luật của con cái họ, Người Do Thái đã tự xác định mình là những người kẻ ngoài cuộc không giống ai, những người ủng hộ những người lười biếng người thua cuộc người thất bại và những người đã từng là nạn nhân và đang là nạn nhân.

Nguyên lý Nho Giáo Khổng Giáo Khổng Tử




Trước khi tôi nghiên cứu các phương pháp giảng dạy và dạy dỗ của người Do Thái, tôi đã nghiên cứu Khổng Học Khổng Giáo Khổng Tử Nho Giáo, vốn là chủ đề của luận văn tiến sĩ của tôi.

Các nguyên lý và giá trị Khổng giáo Nho Giáo dựa trên triết lý và ý tưởng của Khổng Tử, tiếp tục là nền tảng đạo đức cho hầu hết các dân tộc người châu Á người Á Đông, người mà tôi gọi là Khổng học trong bài báo này.

Việc dạy dỗ và giáo huấn của Nho giáo theo bốn nguyên tắc cụ thể:

- Nguyên tắc thứ nhất là các mối quan hệ có tính phân cấp, ở đó tuổi tác là một dấu hiệu của trí tuệ và thẩm quyền. Người cao tuổi có quyền thực hiện kỷ luật và kiểm soát những người trẻ hơn để lắng nghe họ.

Vụ tai nạn máy bay phản lực thảm khốc Đại Hàn Dân Quốc năm 1997 đã cho thấy tác động tiêu cực của hệ thống phân cấp này, trong đó một kỹ sư trẻ tuổi không thách thức quyền lực của thuyền trưởng già hơn, dẫn đến 228 người thiệt mạng.


Cha mẹ Khổng giáo và các nhà giáo dục Khổng giáo dạy con mình sử dụng quyền kiểm soát và quyền lực. Họ nuôi dưỡng sự phụ thuộc và vâng phục trong con cái của họ và sự chấp nhận vững chắc của thông tin họ được dạy.


Điều này cản trở sự độc lập, tự chủ, tư duy phê phán, sự vô kỷ luật và tính thách thức của trẻ em, điều này là cần thiết cho kỹ năng tư duy sáng tạo. Nó cũng giới hạn các kỹ năng tư duy sáng tạo bằng cách ngăn ngừa thụ phấn chéo, đó là chia sẻ ý tưởng và / hoặc làm việc với các chuyên gia khác trong một mối quan hệ bình đẳng.

- Nguyên tắc thứ hai là sự siêng năng chăm chỉ và thành công trong học tập. Cha mẹ và các nhà giáo dục Nho giáo dạy rằng thành công trong học tập là quan trọng không chỉ đối với trẻ em mà còn cho danh dự gia đình rộng lớn và thậm chí là cả tổ tiên.


Nguyên tắc này đã gây ra sự cạnh tranh khốc liệt và không lành mạnh ở Trung Quốc, dẫn đến cái gọi là "địa ngục thi cử Châu Á hay địa ngục thi cử Á Đông từ những năm 1970, dẫn đến tỷ lệ tự tử cao ở các sinh viên Châu Á sinh viên Á Đông.

Cha mẹ Khổng học và nhà giáo dục Khổng học mang giá trị cao nhất đối với công việc học tập, đó là thực hành chuyên sâu, bài tập về nhà nhiều, và kết quả; họ không đánh giá sự vui chơi của trẻ em, tính mơ mộng, hoặc sự tò mò hiếu kỳ, sở thích và sự hứng thú của trẻ em. Điều này cản trở sự phát triển của trẻ em về tính tò mò hiếu kỳ, tự nhiên và sáng tạo.


Nhìn chung, việc nuôi dạy con cái kiểu Nho giáo Khổng Giáo Khổng Tử Khổng Học dẫn đến thiếu sự tự thể hiện bản thận và tính sáng tạo.

- Nguyên tắc thứ ba là lòng hiếu thảo (cha mẹ yêu cầu không cần đặt câu hỏi) và lòng trung thành. Cha mẹ Khổng học rất quan tâm và hy sinh rất nhiều cho thành công học vấn của con mình. Đổi lại, con cái của họ tìm cách trở nên giàu có và đạt được vị thế xã hội cao để họ có thể trả nợ cho cha mẹ của mình cho những hy sinh mà cha mẹ đã làm cho bản thân họ, mà không có chỗ cho hoạt động từ thiện.

Là sự mở rộng lòng đạo hiếu, lòng trung thành trong công việc đã góp phần vào sự thành công về kinh tế của các quốc gia châu Á quốc gia Á Đông trong những năm 1980.

Tuy nhiên, điều đó dẫn các nhà Khổng học chấp nhận quyền lực không câu hỏi và từ chối ý tưởng khác biệt với cả nhóm vì lòng trung thành với nhóm nội bộ của họ.

Cha mẹ Nho giáo dạy con cái mình phải làm việc chăm chỉ hơn và phải giỏi hơn những người bạn cùng trang lứa. Họ công khai so sánh con cái của họ với con cái của người khác, điều này giúp thúc đẩy sự phân chia tạo ra đội nhóm của những kẻ thất bại và những người thành công.


Thái độ này làm giảm đi sự suy nghĩ, tư duy lớn của con cái, sự từ bi, và sự thụ phấn chéo, là những yếu tố chính cho kỹ năng tư duy sáng tạo.

Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng tính cạnh tranh cực đoan đã dẫn đến sự phổ biến của sinh viên châu Á về đạo văn và thiếu ý tưởng ban đầu. Họ càng cảm thấy nghĩa vụ hiếu học hơn, họ càng sẵn sàng lừa dối hoặc đạt được mục tiêu bằng bất cứ cách nào cần thiết.

- Nguyên tắc cuối cùng là hài hòa và phù hợp. Cha mẹ và nhà giáo dục Nho giáo dạy con cái mình phải khiêm tốn và không hành động khác biệt với những người khác.

Điều này có thể làm giảm sự tự tin và cảm giác cá nhân và sự độc đáo của trẻ em.

Họ nhấn mạnh quá mức các mối quan hệ hài hòa và tránh xung đột, tránh sự bất đồng và né tránh mâu thuẫn.


Trẻ em Á châu trẻ em Á Đông rất quan tâm đến quan điểm của người khác. Chính thức và nghiêm túc được khuyến khích, trong khi vui tươi và hài hước thì không. Vì vậy, sự vui tươi, vô kỷ luật, và tính thách thức của họ bị chà đạp, mà điều này lại vốn cần thiết để phát triển kỹ năng tư duy sáng tạo.

Mặc dù có một số điểm giống nhau giữa việc nuôi dạy trẻ em của người Do Thái và dạy dỗ con cái của Nho giáo Khổng giáo Khổng Tử Khổng học,
nói chung, việc dạy dỗ con cái của người Do Thái dẫn đến sự đổi mới, trong khi đó sự nuôi dạy con cái của Nho giáo dẫn đến thiếu sự tự thể hiện bản thân và tính sáng tạo.

Kết quả là trẻ em châu Á trẻ em Đông Á thường giống như người "bonsais". Bonsai là một cây có hình dáng trang trí được cắt tỉa và nắn hình dạng bằng dây để nó không thể phát triển tất cả tiềm năng của nó.

Mọi người đều sinh ra tò mò hiếu kỳ và sáng tạo, nhưng khí hậu hoặc môi trường nuôi dưỡng đè nén sự sáng tạo của họ. Khám phá cách mọi người có thể tu luyện khí hậu sáng tạo, nuôi dưỡng thái độ sáng tạo và áp dụng các kỹ năng tư duy sáng tạo để đạt được sự đổi mới trong The Creativity Challenge: How We Can Recapture American Innovation

Bài báo này trích dẫn từ The Creativity Challenge: How We Can Recapture American Innovation, đó là tổng hợp các kết quả nghiên cứu. Tất cả các nguồn được tìm thấy trong cuốn sách.

Tiến sĩ Kim là giáo sư đạt được giải thưởng đổi mới và sáng tạo của trường đại học William & Mary. Nghiên cứu của cô "Khủng hoảng sáng tạo" là chủ đề của một câu chuyện trên bìa báo Newsweek 2010. Nhiều tạp chí tin tức đã tìm kiếm chuyên môn của bà bao gồm Washington Post, Tạp chí Phố Wall, Báo cáo Thế giới & Báo chí Hoa Kỳ, NPR và các trang khác. Bài viết gây tranh cãi này là trích đoạn từ The Creativity Challenge: How We Can Recapture American Innovation đó là tổng hợp các kết quả nghiên cứu. Tất cả nguồn đều được tìm thấy trong cuốn sách của cô.

Dịch từ aish.com/jw/s/Are-Jews-More-Creative-than-Asians.html

Thursday, September 21, 2017

Người Do thái Sáng Tạo Hơn người Châu Á người Á Đông ?

Người Do thái Sáng Tạo Hơn người Châu Á người Á Đông ?

Vì sao người Do thái Sáng Tạo Hơn người Á Đông

Người Do thái Sáng Tạo Hơn người Châu Á người Á Đông ?

Vì sao người Do thái Sáng Tạo Hơn người Á Đông

Vì sao một người Do thái có khả năng để đạt giải Nobel gấp 625 lần hơn một người Châu Á ? Điều đó không liên quan gì đến chỉ số thông minh IQ

Nghiên cứu của tôi cho thấy một người Do thái có khả năng để đạt giải Nobel gấp 625 lần hơn một người Á Đông ?

Vì sao vậy ?
Có liên quan gì đến chỉ số trí tuệ IQ không ?
Có liên quan gì đến cách người Do Thái dạy dỗ trong gia đình ?

Đánh lẽ ra thì các tiêu chuẩn học thuật cao cấp của nền văn hoá Á Đông sẽ tạo ra số lượng lớn hàng loạt các nhà phát minh sáng chế ?

Sự sáng tạo là quá trình tạo ra cái gì đó độc đáo và có ích, và sự thành công của quá trình sáng tạo là sự sáng chế phát minh. Giải Nobel là biểu tượng của thành tựu phát minh sáng chế.

Người Do Thái dân số ít hơn 0.2% tổng dân số nhân loại nhưng có khoảng 23% người chiến thắng giải Nobel. Bao gồm cả người thắng giải Nobel gần đây là Bob Dylan

Ngược lại, người Châu Á người Á Đông chiếm 23% tổng dân số thế giới nhưng chỉ có 4% người Đông Á chiến thắng giải Nobel.

Xét về quy mô dân số, tỷ lệ những người đoạt giải Nobel Kinh tế của người Do Thái là trên 115, nhưng tỷ lệ người Châu Á ít hơn 0,2. Theo thống kê, một người Do Thái có khả năng giành được giải Nobel hơn 625 lần so với người Châu Á.

Thực tế, người Do Thái tỏa sáng tốt trong tất cả các thành tựu sáng tạo.
Ví dụ: dân Do Thái đẻ ra một số nhạc sĩ người Do Thái vĩ đại nhất của thế kỷ 20: hơn 25% nhạc trưởng, 40% nghệ sĩ dương cầm, 50% nghệ sĩ trung hồ cầm cello và 65% nghệ sĩ vĩ cầm violin.

Nhiều người cho rằng người Do Thái thành công trong lĩnh vực sáng tạo vì họ có chỉ số IQ cao hơn. Nghiên cứu của tôi không ủng hộ khẳng định này.

Ngoài nghiên cứu về lịch sử Do Thái, văn hoá Do Thái và giáo dục Do Thái, tôi đã phỏng vấn và theo dõi người Do Thái và sinh sống cùng gia đình Do Thái trong ba năm.

Tôi đã nghiên cứu các văn bản Do Thái có ảnh hưởng, viếng thăm các nhà thờ và tham dự các buổi lễ Do Thái và ngày lễ Do Thái.

Tôi quyết tâm khám phá các tính năng độc đáo có thể ảnh hưởng đến sự sáng tạo.

Khi tôi bắt đầu nghiên cứu, tôi không biết gì về văn hoá Do Thái.

Sau đó tôi đã học được rằng, nói chung, người Mỹ coi đó là điều cấm kỵ để đánh giá hoặc đưa ra nhận xét về người Do Thái.

Người Mỹ coi đó là điều cấm kỵ để đánh giá hoặc đưa ra nhận xét về người Do Thái

Nhưng vì tôi là người Hàn Quốc, tôi chưa bao giờ biết điều này.

Là một nhà nghiên cứu, sự không quen thuộc của tôi về điều cấm kỵ này đã giúp tôi duy trì tính khách quan của tôi.

Những phát hiện của tôi về sự khác biệt giữa việc dạy dỗ con cái con cháu của người Do Thái và người Á Châu đã gây ra nhiều tranh cãi, và trì hoãn việc xuất bản cuốn sách của tôi, The Creativity Challenge: How We Can Recapture American Innovation, một vài năm nữa.

Nhiều người cho rằng người Do Thái thành công trong lĩnh vực sáng tạo vì họ có chỉ số IQ cao. Tuy nhiên, nghiên cứu của tôi không ủng hộ khẳng định này. Tôi thấy rằng người Châu Á và người Do Thái có chỉ số IQ tương đương.

Người Châu Á và người Do Thái có chỉ số IQ tương đương

Tôi cũng nhận thấy rằng cả những người sáng tạo thành công lẫn những người ít sáng tạo đều được tạo ra bởi khí hậu của họ. Nghiên cứu sâu rộng của tôi đã kết hợp lại thành một khuôn khổ, mà tôi gọi là CATs.

CATs là ba bước thiết thực cho sự sáng tạo có thể đạt được trong bất kỳ nền văn hoá nào.
Đó là: tu luyện Sáng tạo Khí hậu (bước 1); nuôi dưỡng thái độ sáng tạo (bước 2); và phát triển kỹ năng tư duy sáng tạo (bước 3).

Đáng ngạc nhiên, phần quan trọng nhất của một quá trình sáng tạo là khí hậu. Các khí hậu của các cá nhân bao gồm văn hoá, điều kiện vật lý và tâm lý, mối quan hệ giữa các cá nhân, quá trình phát triển và những thành kiến ​​đang có. Tất cả các khía cạnh của khí hậu ảnh hưởng sâu sắc đến cách mọi người suy nghĩ và có tiềm năng khuyến khích hoặc làm nản lòng hành vi sáng tạo. May mắn, khí hậu là phần mà chúng ta có thể kiểm soát nhiều nhất.

Trong khuôn khổ CATs, ưu tiên nuôi dạy con cái của người Do Thái là rất hiệu quả trong việc phát triển khí hậu sáng tạo nuôi dưỡng thái độ sáng tạo và kỹ năng tư duy của trẻ.

Người Do Thái nuôi dưỡng khí hậu sáng tạo bằng cách đặt ra những kỳ vọng cao và cung cấp những thách thức cho con cái của họ bao gồm đưa ra nhận xét thẳng thắn với sự rõ ràng và cụ thể.

Để đối phó với các mối đe dọa khủng khiếp mà người Do Thái phải đối mặt, Người Do Thái đã trở nên kiên cường và thể hiện niềm tin rằng "Cái gì không giết chết bạn sẽ khiến bạn mạnh mẽ hơn.

Người Do Thái phát triển thái độ sáng tạo của trẻ như độc lập, tự tin (sự tự tin thực sự là biết được thế mạnh cụ thể của chính bản thân họ), khả năng phục hồi và chấp nhận rủi ro mạo hiểm chơi liều.

Hơn nữa, thay vì tập trung vào bi kịch, người Do Thái đã biến nó thành sự ủng hộ rộng rãi cho công lý xã hội. Thái độ này củng cố tư duy lớn qua lòng nhân ái.

Cha mẹ người Do Thái có xu hướng cung cấp cho trẻ em Do Thái một mô hình để tìm hiểu và đặt câu hỏi để mở rộng sự tò mò hiếu kỳ của trẻ em người Do Thái.

Cha mẹ Do Thái và giáo viên người Do Thái nuôi dưỡng thái độ sáng tạo của trẻ như thái độ cởi mở, tính cộng đồng và sự thông minh, bằng cách cung cấp cho họ nhiều nguồn lực và kinh nghiệm.

Thật không may trong suốt lịch sử, người Do Thái đã buộc phải trốn khỏi nhà cửa và đất nước. Tuy nhiên, điều này cho phép họ tiếp xúc với đa dạng các chủng người, văn hoá, khu vực, ngôn ngữ, tôn giáo, và nghệ thuật khác nhau.

Những kinh nghiệm này đã mở ra những suy nghĩ của người Do Thái với những quan điểm, ý tưởng và cách sống khác, tăng khả năng tư duy sáng tạo.

Trong khi nuôi dưỡng trẻ thơ Do Thái những giá trị bản sắc Do Thái, Phụ huynh Do thái và thầy giáo Do thái nuôi dưỡng bản sắc văn hoá Do Thái bằng cách dạy cho họ về những điểm giống nhau và khác biệt giữa các nền văn hoá trong khi củng cố mong muốn duy trì bản sắc truyền thống Do Thái của họ.

Các cộng đồng người Do Thái đã phát triển các lớp học, hệ thống trường học, và các chuyến đi ngắn hạn và dài hạn đến quê hương của họ ở Israel. Nhận dạng văn hoá cho phép tạo ra nhiều quan điểm, những suy nghĩ phức tạp, và quan điểm của một người ngoài cuộc, giúp nâng cao kỹ năng tư duy sáng tạo.

Hơn nữa, nghiên cứu cho thấy rằng người Do Thái có khuynh hướng kết hôn muộn hơn so với những người không phải là người Do Thái.

Người Do Thái có nhiều tài chính và tình cảm hơn khi có con cái, giúp họ cung cấp cho con của họ các nguồn lực đa dạng.

Người Do Thái cũng dạy con cái của họ sớm hơn về cách tìm tòi và sử dụng các nguồn như sách vở, nghệ thuật, thư viện, viện bảo tàng và nguồn nhân lực, qua đó nuôi dưỡng sự tháo vát của trẻ em Do Thái.

Cha mẹ người Do Thái / thầy giáo người Do thái nuôi dưỡng thái độ sáng tạo của trẻ như sự tò mò hiếu kỳ, tính lạc quan và ý tưởng lớn bằng cách cung cấp cho thiếu nhi Do Thái nguồn cảm hứng và động viên. Họ có xu hướng cung cấp cho nhi đồng Do Thái một mô hình để tìm hiểu và đặt câu hỏi mở rộng sự tò mò của trẻ em người Do Thái.

Người Do Thái nuôi dưỡng tình yêu của thiếu nhi người Do Thái để đọc sớm và được biết đến như là "Dân tộc của Sách". Hơn nữa, người Do Thái nhấn mạnh Tikkun olam - sửa chữa thế giới - dạy cho con cái của họ để lại cho thế giới một nơi tốt hơn là tìm kiềm điều đó, tạo ra sự rộng lượng như một qui tắc.

Nghiên cứu cho thấy các gia đình Do Thái làm từ thiện nhiều hơn và cho một số tiền lớn hơn các gia đình tôn giáo khác hoặc các gia đình không tôn giáo - bất kể mức thu nhập hay mức độ giàu có của họ.

Nghiên cứu cho thấy các gia đình người Do Thái từ thiện nhìu hơn và cho một số tiền lớn hơn các gia đình đạo khác hoặc các gia đình vô tôn giáo - bất kể mức thu nhập hay mức độ giàu có của họ.

Người Do Thái chiếm ít hơn 2% dân số Mỹ, nhưng họ chiếm 30% số người hiến tủy và hiến các bộ phận cơ thể để làm từ thiện nhiều nhất. Điều này củng cố sự lạc quan cho con trẻ Do Thái, tư duy hình ảnh lớn và lòng vị tha, các yếu tố chủ chốt cho sự đổi mới và sáng tạo.

Cha mẹ dân Do Thái và thầy giáo dân Do Thái có xu hướng nuôi dưỡng cảm xúc, tính tự chủ, vô kỷ luật và tính thích thách thức của trẻ em Do Thái bằng cách cung cấp cho con nít Do Thái sự tự do để được một mình và độc nhất.

Ngâm cứu cho thấy cha mẹ dân tộc Do Thái và thầy giáo dân tộc Do Thái ủng hộ sự tự biểu hiện của trẻ; sự tò mò hiếu kỳ, sở thích và quan tâm của thiếu nhi Do Thái về cách thức và lý do tại sao mọi thứ xảy ra; và lập luận, chứ không phải là sự sạch sẽ, trật tự, quy tắc và cách cư xử tốt.

Cùng với bản sắc văn hoá Do Thái đã nuôi dưỡng sự vô kỷ luật của con cái họ, Người Do Thái đã tự xác định mình là những người kẻ ngoài cuộc không giống ai, những người ủng hộ những người lười biếng người thua cuộc người thất bại và những người đã từng là nạn nhân và đang là nạn nhân.

Nguyên lý Nho Giáo Khổng Giáo Khổng Tử

Trước khi tôi nghiên cứu các phương pháp giảng dạy và dạy dỗ của người Do Thái, tôi đã nghiên cứu Khổng Học Khổng Giáo Khổng Tử Nho Giáo, vốn là chủ đề của luận văn tiến sĩ của tôi.
Các nguyên lý và giá trị Khổng giáo Nho Giáo dựa trên triết lý và ý tưởng của Khổng Tử, tiếp tục là nền tảng đạo đức cho hầu hết các dân tộc người châu Á người Á Đông, người mà tôi gọi là Khổng học trong bài báo này. Việc dạy dỗ và giáo huấn của Nho giáo theo bốn nguyên tắc cụ thể.

- Nguyên tắc thứ nhất là các mối quan hệ có tính phân cấp, ở đó tuổi tác là một dấu hiệu của trí tuệ và thẩm quyền. Người cao tuổi có quyền thực hiện kỷ luật và kiểm soát những người trẻ hơn để lắng nghe họ.

Vụ tai nạn máy bay phản lực thảm khốc Đại Hàn Dân Quốc năm 1997 đã cho thấy tác động tiêu cực của hệ thống phân cấp này, trong đó một kỹ sư trẻ tuổi không thách thức quyền lực của thuyền trưởng già hơn, dẫn đến 228 người thiệt mạng.

Cha mẹ Khổng giáo và các nhà giáo dục Khổng giáo dạy con mình sử dụng quyền kiểm soát và quyền lực. Họ nuôi dưỡng sự phụ thuộc và vâng phục trong con cái của họ và sự chấp nhận vững chắc của thông tin họ được dạy.

Điều này cản trở sự độc lập, tự chủ, tư duy phê phán, sự vô kỷ luật và tính thách thức của trẻ em, điều này là cần thiết cho kỹ năng tư duy sáng tạo. Nó cũng giới hạn các kỹ năng tư duy sáng tạo bằng cách ngăn ngừa thụ phấn chéo, đó là chia sẻ ý tưởng và / hoặc làm việc với các chuyên gia khác trong một mối quan hệ bình đẳng.

- Nguyên tắc thứ hai là sự siêng năng chăm chỉ và thành công trong học tập. Cha mẹ và các nhà giáo dục Nho giáo dạy rằng thành công trong học tập là quan trọng không chỉ đối với trẻ em mà còn cho danh dự gia đình rộng lớn và thậm chí là cả tổ tiên.

Nguyên tắc này đã gây ra sự cạnh tranh khốc liệt và không lành mạnh ở Trung Quốc, dẫn đến cái gọi là "địa ngục thi cử Châu Á hay địa ngục thi cử Á Đông từ những năm 1970, dẫn đến tỷ lệ tự tử cao ở các sinh viên Châu Á sinh viên Á Đông.

Cha mẹ Khổng học và nhà giáo dục Khổng học mang giá trị cao nhất đối với công việc học tập, đó là thực hành chuyên sâu, bài tập về nhà nhiều, và kết quả; họ không đánh giá sự vui chơi của trẻ em, tính mơ mộng, hoặc sự tò mò hiếu kỳ, sở thích và sự hứng thú của trẻ em. Điều này cản trở sự phát triển của trẻ em về tính tò mò hiếu kỳ, tự nhiên và sáng tạo.

Nhìn chung, việc nuôi dạy con cái kiểu Nho giáo Khổng Giáo Khổng Tử Khổng Học dẫn đến thiếu sự tự thể hiện bản thận và tính sáng tạo.

- Nguyên tắc thứ ba là lòng hiếu thảo (cha mẹ yêu cầu không cần đặt câu hỏi) và lòng trung thành. Cha mẹ Khổng học rất quan tâm và hy sinh rất nhiều cho thành công học vấn của con mình. Đổi lại, con cái của họ tìm cách trở nên giàu có và đạt được vị thế xã hội cao để họ có thể trả nợ cho cha mẹ của mình cho những hy sinh mà cha mẹ đã làm cho bản thân họ, mà không có chỗ cho hoạt động từ thiện.

Là sự mở rộng lòng đạo hiếu, lòng trung thành trong công việc đã góp phần vào sự thành công về kinh tế của các quốc gia châu Á quốc gia Á Đông trong những năm 1980.

Tuy nhiên, điều đó dẫn các nhà Khổng học chấp nhận quyền lực không câu hỏi và từ chối ý tưởng khác biệt với cả nhóm vì lòng trung thành với nhóm nội bộ của họ.

Cha mẹ Nho giáo dạy con cái mình phải làm việc chăm chỉ hơn và phải giỏi hơn những người bạn cùng trang lứa. Họ công khai so sánh con cái của họ với con cái của người khác, điều này giúp thúc đẩy sự phân chia tạo ra đội nhóm của những kẻ thất bại và những người thành công.

Thái độ này làm giảm đi sự suy nghĩ, tư duy lớn của con cái, sự từ bi, và sự thụ phấn chéo, là những yếu tố chính cho kỹ năng tư duy sáng tạo.

Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng tính cạnh tranh cực đoan đã dẫn đến sự phổ biến của sinh viên châu Á về đạo văn và thiếu ý tưởng ban đầu. Họ càng cảm thấy nghĩa vụ hiếu học hơn, họ càng sẵn sàng lừa dối hoặc đạt được mục tiêu bằng bất cứ cách nào cần thiết.

- Nguyên tắc cuối cùng là hài hòa và phù hợp. Cha mẹ và nhà giáo dục Nho giáo dạy con cái mình phải khiêm tốn và không hành động khác biệt với những người khác.

Điều này có thể làm giảm sự tự tin và cảm giác cá nhân và sự độc đáo của trẻ em.

Họ nhấn mạnh quá mức các mối quan hệ hài hòa và tránh xung đột, tránh sự bất đồng và né tránh mâu thuẫn.

Trẻ em Á châu trẻ em Á Đông rất quan tâm đến quan điểm của người khác. Chính thức và nghiêm túc được khuyến khích, trong khi vui tươi và hài hước thì không. Vì vậy, sự vui tươi, vô kỷ luật, và tính thách thức của họ bị chà đạp, mà điều này lại vốn cần thiết để phát triển kỹ năng tư duy sáng tạo.

Mặc dù có một số điểm giống nhau giữa việc nuôi dạy trẻ em của người Do Thái và dạy dỗ con cái của Nho giáo Khổng giáo Khổng Tử Khổng học,

nói chung, việc dạy dỗ con cái của người Do Thái dẫn đến sự đổi mới, trong khi đó sự nuôi dạy con cái của Nho giáo dẫn đến thiếu sự tự thể hiện bản thân và tính sáng tạo.

Kết quả là trẻ em châu Á trẻ em Đông Á thường giống như người "bonsais". Bonsai là một cây có hình dáng trang trí được cắt tỉa và nắn hình dạng bằng dây để nó không thể phát triển tất cả tiềm năng của nó.

Mọi người đều sinh ra tò mò hiếu kỳ và sáng tạo, nhưng khí hậu hoặc môi trường nuôi dưỡng đè nén sự sáng tạo của họ. Khám phá cách mọi người có thể tu luyện khí hậu sáng tạo, nuôi dưỡng thái độ sáng tạo và áp dụng các kỹ năng tư duy sáng tạo để đạt được sự đổi mới trong The Creativity Challenge: How We Can Recapture American Innovation

Bài báo này trích dẫn từ The Creativity Challenge: How We Can Recapture American Innovation, đó là tổng hợp các kết quả nghiên cứu. Tất cả các nguồn được tìm thấy trong cuốn sách.

Tiến sĩ Kim là giáo sư đạt được giải thưởng đổi mới và sáng tạo của trường đại học William & Mary. Nghiên cứu của cô "Khủng hoảng sáng tạo" là chủ đề của một câu chuyện trên bìa báo Newsweek 2010. Nhiều tạp chí tin tức đã tìm kiếm chuyên môn của bà bao gồm Washington Post, Tạp chí Phố Wall, Báo cáo Thế giới & Báo chí Hoa Kỳ, NPR và các trang khác. Bài viết gây tranh cãi này là trích đoạn từ The Creativity Challenge: How We Can Recapture American Innovation đó là tổng hợp các kết quả nghiên cứu. Tất cả nguồn đều được tìm thấy trong cuốn sách của cô.

Dịch từ aish.com/jw/s/Are-Jews-More-Creative-than-Asians.html

Tuesday, September 5, 2017

Viếng Thăm Bệnh Nhân Người Do Thái

Trong xã hội Israel xưa kia việc thăm viếng các bệnh nhân đã được coi như là một bổn phận diễn tả tình yêu và lòng thương xót, không phải chỉ để an ủi khích lệ người đau yếu, mà cũng là để cùng cầu nguyện với họ và cho họ được lành bệnh và được ơn tha thứ tội lỗi nữa - Trích (Thần Học Kinh Thánh bài 1137) Linh Tiến Khải
✡️ Truyền thống đọc kinh cầu nguyện cho bệnh nhân

Đọc kinh cầu nguyện cho bệnh nhân là một truyền thống cổ xưa đậm đà bản sắc dân tộc của người Do Thái. Những kinh cầu nguyện truyền thống đọc cho người bệnh là Mi Shebeirach và Psalm 119.
✡️ Kinh cầu nguyện cho bệnh nhân Tiếng Việt Mi Shebeirach / Mi Sheberach / Mi Sheberakh / Mi Shebeirakh

Xin Đấng đã ban phước cho tổ tiên chúng con —

Tổ phụ Abraham, Isaac, và Jacob,

Tổ mẫu Sarah, Rebecca, Rachel, và Leah —

ban phúc và chữa lành bệnh nhân:

________________ con trai/con gái của ________________ .

Xin Đấng thánh thiện duy nhất

tràn ngập lòng thương xót lên anh / chị / ông / bà / em / bé,

để phục hồi anh / chị / ông / bà / em / bé

để chữa lành anh / chị / ông / bà / em / bé

thêm sức mạnh anh / chị / ông / bà / em / bé

làm sống động anh / chị / ông / bà / em / bé.

Đấng sẽ gửi anh / chị / ông / bà / em / bé, mau chóng,

một sự chữa lành hoàn toàn —

chữa lành linh hồn và chữa lành thể xác —

cùng với tất cả các căn bệnh,

cùng với dân tộc Israel và toàn thể nhân loại,

sớm,

nhanh chóng,

không chậm trễ,

và tất cả chúng ta hãy cùng nói: Amen!
✡️ Kinh cầu nguyện cho người bệnh tiếng Anh

May the One who blessed our ancestors —

Patriarchs Abraham, Isaac, and Jacob,

Matriarchs Sarah, Rebecca, Rachel, and Leah —

bless and heal the one who is ill:

________________ son/daughter of ________________ .

May the Holy Blessed One

overflow with compassion upon him/her,

to restore him/her,

to heal him/her,

to strengthen him/her,

to enliven him/her.

The One will send him/her, speedily,

a complete healing —

healing of the soul and healing of the body —

along with all the ill,

among the people of Israel and all humankind,

soon,

speedily,

without delay,

and let us all say: Amen!

✡️ Kinh cầu nguyện cho người bệnh Phiên Dịch

Mi Sheberakh

Avoteinu: Avraham, Yitzhak, v’Yaakov,

v’Imoteinu: Sarah, Rivka, Rachel v’Leah,

Hu yivarekh virapei

et haholeh/haholah _____________ ben/bat ______________

HaKadosh Barukh Hu

yimalei rahamim alav/aleha,

l’hahalimo/l’hahlimah,

u-l’rap’oto/u-l’rap’otah,

l’hahaziko/l’hazikah,

u-l’hay-oto/u-l’hay-otah.

V’yishlah lo/lah bim-hera

r’fuah shlemah,

r’fu-at hanefesh u-r’fu-at hagoof,

b’tokh sh’ar holei Yisrael v’holei yoshvei tevel,

hashta ba’agalah u-vizman kariv,

v’no-mar, Amen!

✡️ Viếng thăm bệnh nhân là một điều răn.

Điều răn này xuất hiện khi Thiên Chúa viếng thăm Abraham sau khi Abraham đã cắt bao quy đầu hay cắt bì.
🕎 Genesis 17:26-27 Abraham và con trai Ishmael chịu cắt bì trong cùng một ngày, cùng với tất cả các người nam trong nhà, gồm các trai sinh ra trong nhà ông và các trai ông mua về từ người ngoài.

🕎 Genesis 18:1 Sau đó CHÚA lại hiện ra cùng Abraham gần các cây sồi lớn tại Mamre khi ông đang ngồi nơi cửa lều mình lúc trời đang nắng gắt.

Sunday, September 3, 2017

Tên Họ người Do Thái

Ý nghĩa Tên Họ người Do Thái và Cách Đặt Tên Họ Kiểu Do Thái


✡ Thực chất người Do thái KHÔNG có tên họ

Người Do Thái Ashkenazi là những người Châu Âu lấy tên họ trễ nhất. Dân do thái nói tiếng Đức thì lấy tên họ sớm hơn vào thế kỷ 17. Người do thái Đông Âu thì không lấy tên họ cho đến khi bị bắt buộc phải làm như vậy. Giai đoạn này bắt đầu ở Đế quốc Áo-Hung năm 1787 và kết thúc ở Đế quốc Nga năm 1844.

Để xây dựng quốc gia hiện đại, chính quyền ra lệnh người Do Thái phải lấy tên họ để dễ dàng trong việc thu thuế, soạn thảo và giáo dục. Trong nhiều thế kỷ, các nhà lãnh đạo cộng đồng Do Thái có trách nhiệm thu thuế từ dân Do Thái thay mặt cho chính phủ và trong một số trường hợp có trách nhiệm điền vào hạn ngạch dự thảo. Giáo dục truyền thống là vấn đề nội các Do Thái.

Cho đến giai đoạn này thì...

✡ Người do thái Đổi Tên Họ sau mỗi thế hệ

Dân do thái Đổi Tên Họ sau mỗi thế hệ, Ví dụ: nếu Moses con trai của Mendel (Moyshe ben Mendel) kết hôn với Sarah con gái của Rebecca (Sora bas Rifke), nếu sinh bé trai đặt tên là Samuel (Shmuel), bé trai đó sẽ được gọi là Shmuel ben Moyshe. Nếu sinh con gái đặt tên là Feygele, bé gái đó sẽ được gọi là Feygele bas Sora.

Người Do Thái không tin tưởng chính phủ và chống lại yêu cầu mới. Mặc dù họ buộc phải lấy tên họ, lúc đầu họ chỉ sử dụng cho các mục đích giấy tờ. Trong cộng đồng, họ vẫn giữ tên truyền thống. Theo thời gian, người Do Thái chấp nhận những cái tên họ mới, đó là điều bắt buộc khi người Do Thái tìm cách tiến thân trong xã hội rộng lớn hơn và khi những ngôi làng nhỏ đã thay đổi hoặc người Do Thái bỏ những ngôi làng để ra các thành phố lớn sinh sống.

✡ Những cách đặt tên họ của người Do Thái

🕎 Lấy tên Cha làm tên họ

Trong tiếng Yiddish và tiếng Đức, "con trai" sẽ là son, sohn, er. Trong ngôn ngữ Slavic như là tiếng Ba Lan và tiếng Nga, "con trai" sẽ là wich, witz.


Ví dụ: Con trai của Mendel lấy tên họ là Mendelsohn
Con trai của Abraham lấy tên họ là Abramson hay Avromovitch
Con trai của Menashe lấy tên họ là Manishewitz
Con trai của Itzhak lấy tên họ là Itskowitz
Con trai của Berl lấy tên họ là Berliner
Con trai của Kesl lấy tên họ là Kessler

🕎 Lấy tên Mẹ hay tên Vợ tên của Bà Xã làm tên họ

Chaiken - con trai của Chaikeh;
Edelman - ông xã của Edel
Gittelman - chồng của Gitl
Perlman - ông xã của Perl

✡ Lấy tên Địa Danh làm tên họ

Tên họ lấy từ vị trị Địa Lý là tên họ phổ biến nhất của người Do Thái. Dân do thái lấy tên từ những thị trấn và vùng miền nơi họ đã từng sinh sống, hoặc nơi mà gia đình họ đến từ, làm tên họ. Vì vậy, nguồn gốc Đức của người Do Thái Đông Âu được phản ánh trong tên của họ.


Ví dụ: Asch là một từ viết tắt cho các thị trấn của Aisenshtadt, Altshul, Amshterdam.
- Berger (dân tỉnh lỵ, dân thôn ấp, dân thị trấn, dân thành thị, dân thành phố)
- Berg (nhân), có nghĩa là đến từ vùng đồi núi
- Dorf (nhân), có nghĩa là dân làng
- Bayer - đến từ Bavaria
- Berliner, Berlinsky - đến từ Berlin
- Bloch (người nước ngoài)
- Deutch/Deutscher - người Đức
- Frankel - đến từ vùng Franconia nước Đức
- Halperin - đến từ Helbronn quốc gia Đức
- Heller - đến từ Halle đất nước Đức
- Lipsky - đến từ Leipzig xứ Đức
- Posner - đến từ Posen xứ sở Đức
- Rothenberg - từ thành phố pháo đài đỏ ở Đức
- Shapiro - từ Speyer tại Đức
- Schlesinger - từ Silesia nơi Đức

✡ Lấy tên Nghề Nghiệp làm tên họ

🕎 Thợ thủ công

- Nagler thợ làm móng
- Kunstler nghệ sĩ
- Spielman dân chơi
- Farber họa sĩ hay thợ nhuộm
- Schmidt/Kovalsky thợ rèn
- Forman tài xế / người đánh xe ngựa / người lái xe
- Ackerman thợ cày cấy
- Baker/Boker thợ làm bánh ngọt
- Blecher thợ thiếc
- Fleisher/Fleishman/Katzoff/Metger người bán thịt
- Cooperman thợ làm đồng
- Drucker thợ in ấn
- Einstein thợ xây
- Feinstein thợ kim hoàn
- Goldstein thợ vàng
- Silverstein thợ bạc
- Stein/Steiner/Stone thợ hoàn kim
- Fisher ngư dân
- Garber/Gerber thợ thuộc da
- Glazer/Glass/Sklar thợ làm kiếng
- Plotnick thợ mộc
- Kastner thợ mộc đóng tủ
- Kramer người coi kho
- Sandler/Shuster thợ đóng giày
- Wasserman thợ gánh nước
🕎 Con buôn trọc phú

- Zucker/Zuckerman bán đường ( đường ngọt, đường mía )
- Salzman bán muối
- Garfinkel/Garfunkel bán kim cương
- Holzman/Holtz/Waldman bán gỗ
- Rokeach bán gia vị
- Seid/Seidman bán vải vóc
- Tuchman bán quần áo
- Wachsman bán sáp
- Wechsler/Halphan người đổi tiền
- Wollman bán len

🕎 Liên quan đến công việc may quần áo


- Kravitz/Portnoy/Schneider/Snyder thợ may
- Nadelman/Nudelman cây kim
- Sher/Sherman cây kéo
- Presser/Pressman máy ép quần áo
- Futterman/Kirshner/Kushner/Peltz người làm da thú người bán da thú
- Weber thợ dệt vải

🕎 Y khoa y tế

- Aptheker dược sĩ
- Feldsher bác sĩ phẫu thuật
- Bader/Teller thợ hớt tóc thợ cắt tóc

🕎 Liên quan đến rượu bia
- Bronfman/Brand/Brandler/Brenner thợ cất rượu
- Braverman/Meltzer thợ làm bia
- Kabakoff/Krieger/Vigoda người trông nom quán rượu
- Geffen/Wine/Weinglass thương gia rượu vang
- Weiner thợ làm rượu vang

✡ Tính cách

- Alter/Alterman già / cổ điển / cũ
- Dreyfus ba chân, người chống gậy
- Erlich chân thật
- Frum sùng đạo
- Gottleib yêu Thiên Chúa, người rất là mộ đạo
- Geller/Gelber vàng, người tóc vàng
- Gross/Grossman người to con
- Fried/Friedman hạnh phúc
- Hoch/Hochman/Langer/Langerman người tướng tá cao
- Klein/Kleinman người nhỏ con
- Krauss tóc quăn tóc xoắn
- Kurtz/Kurtzman người lùn người thấp người có chiều cao khiêm tốn
- Reich/Reichman giàu sang giàu có
- Reisser người khổng lồ
- Roth/Rothman người tóc Đỏ
- Roth/Rothbard người râu Đỏ
- Shein/Schoen/Schoenman Đẹp Trai
- Schwartz/Shwartzman/Charney tóc đen hay da ngăm
- Scharf/Scharfman người sắc sảo trí tuệ thông minh

✡ Lấy tên gọi Thú Vật làm tên họ

- Baer/Berman/Beerman/Berkowitz/Beronson con Gấu
- Adler con chim Đại Bàng ( có thể bắt nguồn từ việc nhắc đến chim đại bàng trong Psalm 103:5 )
- Einhorn con Kỳ lân con ngựa một sừng
- Falk/Sokol/Sokolovksy con chim ưng
- Fuchs/Liss con cáo
- Hirschhorn con hươu nai
- Karp con cá chép
- Loeb con sư tử
- Strauss con đà điểu ( hay bó hoa )
- Wachtel con chim cút

✡ Cộng đồng

- Sandek nghĩa là Bố Già
- Richter thẩm phán
- London học giả

✡ Tên họ lãng mạn văn hoá Đức

Khi người Do Thái ở Đế quốc Áo-Hung được yêu cầu lấy tên họ, một số đã chọn những cái đẹp nhất họ có thể nghĩ đến và có thể đã bị nhà chức trách tính phí đăng ký. Theo Bách khoa toàn thư của YIVO, "Những cái tên họ thường liên quan đến thiên nhiên và sắc đẹp. Rất có khả năng là các lựa chọn đã chịu ảnh hưởng bởi xu hướng lãng mạn chung của nền văn hoá Đức vào thời đó."

- Applebaum cây Táo
- Birnbaum cây Lê
- Buchsbaum cây Hoàng Dương
- Kestenbaum cây Hạt Dẻ
- Kirschenbaum cây Anh Đào
- Mandelbaum cây Hạnh Nhân
- Tannenbaum cây Thông

🕎 Lấy tên của các nhân vật trong Kinh Thánh làm tên họ

Một vài người Do Thái lấy tên của các nhân vật trong Kinh Thánh làm tên họ:

-Tên Cohen biến thể thành những tên họ như Cohn, Kohn, Kahan, Kahn, Kaplan.
- Tên Levi biến thể thành những tên họ như Levy, Levine, Levinsky, Levitan, Levenson, Levitt, Lewin, Lewinsky, Lewinson.
- Tên Aaron biến thể thành những tên họ như Aronson và Aronoff.
- Tên David biến thể thành những tên họ như Davis & Davies.
- Tên Isaac biến thể thành những tên họ như Isaacs, Isaacson/Eisner.
- Tên Jacob biến thể thành những tên họ như Jacobs, Jacobson, Jacoby.
- Tên Menachem biến thể thành những tên họ như Mann, Mendel.
- Tên Samuel biến thể thành những tên họ như Samuels, Zangwill.

🕎 Lấy tên họ từ tên Hebrew viết tắt

- Baron - bar aron ( con trai của Aaron )
- Beck — bene kedoshim ( hậu duệ của những người tử vì đạo )
- Metz — moreh tsedek ( giáo viên của sự công chính )

🕎 Những tên họ có nguồn gốc từ tiếng Hebrew và Yiddish

- Lieb nghĩa là con sư tử trong tiếng Yiddish. Đây là gốc rễ của nhiều tên họ Ashkenazi bao gồm Liebowitz, Lefkowitz, Lebush, và Leon. Là bản dịch tiếng Yiddish của từ aryeh trong tiếng Hebrew. Con Sư Tử là biểu tượng của chi tộc Judah.

- Hirsch nghĩa là con nai trong tiếng Yiddish. Đây là gốc rễ của nhiều tên họ Ashkenazi bao gồm Hirschfeld, Hirschbein/Hershkowitz (con trai của Hirsch), Hertz/Herzl, Cerf, Hart, and Hartman. Là bản dịch tiếng Yiddish của từ linh dương trong tiếng Hebrew: tsvi. Con Linh Dương là biểu tượng của chi tộc Naphtali.

- Taub nghĩa là con chim bồ câu trong tiếng Yiddish. Đây là gốc rễ của tên họ Ashkenazi là Tauber. Con Chim Bồ Câu là biểu tượng của nhà tiên tri Jonah.

- Wolf là gốc rễ của nhiều tên họ Ashkenazi bao gồm Wolfson, Wouk, và Volkovich. Con Chó Sói là biểu tượng của chi tộc Benjamin.

- Eckstein tiếng Yiddish nghĩa là Viên đá đầu tiên Viên đá góc tường, có nguồn gốc trong Kinh Thánh Psalm 118:22.

- Good ( người ) là bản dịch tiếng Yiddish của từ tốt đẹp trong tiếng Hebrew: tuviah.

- Margolin tiếng Hebrew là viên ngọc trai.

✡ Những tên khác được chọn và kết hợp với những từ gốc sau đây:

Blumen (bông), Fein (tốt), Gold, Green, Lowen (sư tử), Rosen (hoa hồng), Schoen/Schein (xinh đẹp) — kết hợp với berg (đồi núi), thal (thung lũng), bloom (hoa), zweig (vòng hoa), blatt (lá), vald hay wald (gỗ), feld (cánh đồng).

Những tên khác bao gồm Diamond (kim cương), Glick/Gluck (may mắn), Hoffman (hy vọng), Fried/Friedman (sự hạnh phúc), Lieber/Lieberman (người yêu).

✡ Tên họ Do thái đến từ ngôn ngữ khác:

- Sender/Saunders từ Alexander.
- Kagan hậu duệ người Khazar, một nhóm người nói tiếng Thổ ở Trung Á.
- Kelman/Kalman từ tên Hy Lạp Kalonymous, bản dịch tiếng Hy Lạp của từ tên tốt (shem tov) trong tiếng Hebrew, phổ biến với người do Thái thời trung cổ Pháp và Ý.
- Marcus/Marx từ tiếng Latin đề cập đến vị thần ngoại giáo sao Hỏa là Vị Thần Chiến Tranh.

Cuối cùng, có thể có những người Do Thái bị thay đổi hoặc rút ngắn bởi thanh tra khám xét dân nhập cư (mặc dù điều này bị tranh cãi) hoặc bởi chính những người nhập cư (hoặc con cháu của họ) để tên nghe giống người Mỹ hơn, đó là lý do tại sao "Sean Ferguson" là một người Do Thái.

🕎 Nào chúng ta cùng kết thúc với bài hát ngắn:

Và đây là Boston cũ tốt;
Nhà của Đậu và Cá Tuyết.
Nơi mà Lowell chỉ nói chuyện với Cabots;
Và Cabots nói Tiếng Yiddish, bởi Thiên Chúa!

#nguoidothai #dandothai #dothai #dantocdothai #tenho

Tác giả Bennett Muraskin - Tham khảo: http://www.slate.com/blogs/lexicon_valley/2014/01/08/ashkenazi_names_the_etymology_of_the_most_common_jewish_surnames.html