Thursday, June 29, 2017

Cha Đẻ của Bom Nguyên Tử là người Do Thái

Bạn có biết Cha Đẻ Bom Nguyên Tử là người Do Thái

Quả bom Nguyên Tử đầu tiên thả xuống đất Nhật năm 1945 đã làm cho mọi người kinh hoàng về thứ khí giới mới và cũng làm cho các nhà khoa học tin tưởng rằng Thuyết Tương Đối của nhà Đại Bác Học Albert Einstein là đúng. Tuy sức tàn phá của quả bom Nguyên Tử quá khủng khiếp, song người ta vẫn phải trầm trồ khen ngợi một nhà bác học trẻ tuổi, cha đẻ ra quả bom A này. Giáo Sư J. Robert Oppenheimer, Giám Đốc Trung Tâm Nghiên Cứu Nguyên Tử Lực tại Los Alamos thuộc tiểu bang New Mexico, Hoa Kỳ, trái lại rất chán nản về phát minh của mình. Và chính ông Julius Oppenheimer cũng không ngờ người con trai của mình lại trở nên một nhà bác học danh tiếng đến như thế, vì ông Julius chỉ ước mong con trai trở thành một công dân trên trung bình.


1/ Thuở trẻ của Robert Oppenheimer.

Ông Julius Oppenheimer gốc người Do Thái, từ nước Đức sang Hoa Kỳ lập nghiệp và hoạt động trong ngành xuất cảng vải sợi tại thành phố New York. Vốn là một đại thương gia, ông đã nhiều lần cùng con trai sang thăm châu Âu.

Ngay từ thuở nhỏ, Robert đã tỏ ra là một cậu bé thông minh và hiếu học. Cậu theo ban trung học trong thành phố New York. Các sách viết bằng tiếng La Tinh, Hy Lạp, đối với cậu không khó và môn Vật Lý được cậu ưa chuộng nhất. Trong các câu chuyện giữa chúng bạn, Robert bàn luận rõ ràng, cậu ghét tính ba hoa và ưa tư lự. Phải chăng tính ưa thích cô độc là một đặc tính của các nhà bác học?

Vào một dịp hè, ông Julius dẫn con trai đến phòng thí nghiệm của Giáo Sư Auguste Klock, xin cho con theo học thêm về môn Hóa Học. Robert tiến bộ đến nỗi cậu ngốn hết cả chương trình một niên học trong 6 tuần lễ. Ông Klock đã phải ngạc nhiên về trí thông minh của cậu học trò mới này và đã nói : "Cậu Robert học khá đến nỗi không vị Giáo Sư nào nỡ cấm cản không cho cậu học thêm bài mới".

Khi bước chân vào trường Đại Học Harvard, Robert đã say sưa với các sách báo của thư viện nhà trường. Các tác phẩm triết học Đông Phương cũng như Tây Phương đã làm chàng thanh niên này đam mê, suy nghĩ. Trong 3 năm trường, chàng đã theo 6 môn học chính và 2 môn học phụ, trong khi các sinh viên khác chỉ có thể học tối đa 5 môn học.

Rồi vào năm 1925, Robert Oppenheimer tốt nghiệp trường Đại Học Harvard với hạng ưu và lời khen ngợi của Hội Đồng Giáo Sư. Sau đó chàng sang nước Anh và ghi tên vào trường Đại Học Cambridge. Tại Cơ Sở Thí Nghiệm Cavendish, chàng được theo học Giáo Sư J. Thomson và Lord Rutherford là các nhà tiền phong về khảo cứu nguyên tử và cũng là các nhà bác học lừng danh thời bấy giờ. Chàng cũng được gặp gỡ các nhà bác học lỗi lạc Niels Bohr người Đan Mạch, Paul Dirac người Anh và Max Born người Đức. Ông Max Born mời chàng sang Đức theo học tại trường Đại Học Goettingen.

Từ xưa, nước Đức vẫn nổi tiếng về Khoa Học và Đại Học Đường Goettingen là một ngôi trường danh tiếng của châu Âu. Robert Oppenheimer sang Đức và sau 6 tuần lễ ghi tên, chàng đã đậu văn bằng Tiến Sĩ, năm đó chàng mới 23 tuổi. Các Giáo Sư đều khen ngợi bản luận án xuất sắc của chàng về Nền Cơ Học Lượng Tử (la Mécanique Quantique). Ít lâu sau, chàng lại sang Thụy Sĩ, theo học trường Bách Khoa Zurich là một trong các trường kỹ thuật danh tiếng nhất của châu Âu.

Khi Robert trở về Hoa Kỳ, ông Julius hết sức ngạc nhiên vì thấy con trai gầy còm chẳng khác gì một chiếc gậy. Thân hình cao lỏng khỏng, má hóp, ngực lép, chàng Robert lại húng hắng ho. Ông Julius liền tìm cách cho con trai đi nghỉ ngơi tại miền quê để dinh dưỡng cơ thể. Ông mua ngay cho con một nông trại trong tiểu bang New Mexico. Tại nơi đây, cả ngày ngồi trên yên ngựa, chàng Robert ngao du khắp các đồi núi. Cái nông trại miền New Mexico này không giống với các nông trại khác. Nơi đây vắng vẻ, hiu quạnh, khiến cho người ta có cảm tưởng một bãi sa mạc hơn là một miền đồng quê. Nhờ hít thở không khí trong lành và nghỉ ngơi tĩnh dưỡng, Robert Oppenheimer đã hoàn toàn bình phục.

Năm 1928, Viện Kỹ Thuật California (the California Institute of Technology = C.I.T.) là nơi tụ tập các nhà vật lý danh tiếng trên thế giới, đã gửi giấy mời ông Robert Oppenheimer giữ chức Giáo Sư của Viện. Trường Đại Học California tại Berkeley (the University of California at Berkeley) cũng đón mời. Ông Robert Oppenheimer nhận lời giảng dạy tại cả hai trường.

Trong hơn 10 năm giảng huấn, ông Robert Oppenheimer đã được cảm tình của hầu hết sinh viên. Họ đã gọi ông giáo sư trẻ 24 tuổi này là Oppie cho tiện và thân mật. Tuy giữ chức Giáo Sư Đại Học nhưng Giáo Sư Oppie lúc nào cũng bình dị và nội tâm của ông vẫn là một chàng sinh viên ưa hoạt động và hiếu học. Robert Oppenheimer không e ngại khi chính mình phải học thêm một môn học nào đó. Cũng vì vậy ông tìm tới Giáo Sư Arthur Ryder là nhà bác học chuyên về Triết Lý Ấn Độ và xin học chữ Phạn. Đây là sinh ngữ thứ tám của ông nhưng đối với ông cũng không khó và ít lâu sau, ông đã hiểu thấu nền triết học rất uyên thâm và phức tạp này.

2/ Thời kỳ khảo cứu Nguyên Tử.

Từ thập niên 1920, các lý thuyết mới về Quang Tử (Quantum) và Thuyết Tương Đối (Relativity Theories) đã gây chú ý trong giới Khoa Học nên các khảo cứu ban đầu của ông Robert Oppenheimer là về các hạt hạ nguyên tử (subatomic particles), gồm cả các âm điện tử (electrons), dương điện tử (positrons) và các tia vũ trụ (cosmic rays). Ngoài ra, ông còn huấn luyện một thế hệ mới các nhà vật lý Hoa Kỳ và những khoa học gia này chịu ảnh hưởng của Robert Oppenheimer cả về tinh thần độc lập lẫn tài lãnh đạo.

Từ năm 1933, sự việc Adolf Hitler lên nắm quyền tại nước Đức đã khiến cho ông Robert Oppenheimer quan tâm tới chính trị. Vào năm 1936, ông Oppenheimer đứng về phe các người cộng hòa trong cuộc Nội Chiến Tây Ban Nha đồng thời ông cũng có cơ hội làm quen với các người Cộng Sản. Nhưng các thảm cảnh mà Joseph Stalin gây ra đối với các nhà Khoa Học Nga đã khiến cho ông Oppenheimer không còn giao du với đảng Cộng Sản nữa mà chỉ là một người theo lý thuyết dân chủ cấp tiến (liberal democratic philosophy).

Năm 1943, Thế Chiến Thứ Hai đang ở vào thời kỳ khốc liệt. Các gián điệp của Hoa Kỳ báo tin rằng các nhà bác học Đức đã tìm ra Nguyên Tử và đang tìm cách áp dụng kỹ thuật này vào khí giới chiến tranh. Vì vậy Hoa Kỳ phải quyết định mở một cuộc chạy đua kỹ thuật nguyên tử và Lục Quân Hoa Kỳ được giao cho trách nhiệm tổ chức các nhà khoa học người Anh và người Mỹ để tìm ra một phương pháp chế ngự năng lượng nguyên tử dùng cho các mục đích quân sự. Theo đề nghị của Tướng Leslie Groves, Tổng Thống Franklin D. Roosevelt đã mời ông Robert Oppenheimer giữ chức Giám Đốc Trung Tâm Khảo Cứu Nguyên Tử Lực của Hoa Kỳ và Trung Tâm này có mục đích chế tạo ra bom nguyên tử.

Thực ra, việc bổ nhiệm này cũng hơi lạ lùng. Tuy Robert Oppenheimer nổi tiếng về ngành chuyên môn của mình tức là ngành Vật Lý Nguyên Tử, nhưng ông chỉ giỏi về mặt lý thuyết, suốt ngày sống giữa tấm bảng đen và những con số mà chưa hề sáng chế về máy móc hay điều khiển một trung tâm khảo cứu nào. Vào thời kỳ đó, tại Hoa Kỳ không thiếu gì các nhà bác học lừng danh từ châu Âu chạy sang tị nạn như Albert Einstein, Niels Bohr, Enrico Fermi. . . và ngay cả trong ngành Nguyên Tử cũng không thiếu gì các Giáo Sư tài ba, nhiều tuổi hơn Robert Oppenheimer, uy tín cao hơn để xứng đáng giữ trọng trách điều khiển Trung Tâm. Việc chế tạo bom nguyên tử là một công trình vĩ đại, nó đòi hỏi ở người chỉ huy những đức tính mà chưa chắc gì một Giáo Sư Đại Học đã có đủ, và còn cần tới một tài năng không những thuộc về địa hạt Khoa Học mà còn thuộc cả về địa hạt Kỹ Nghệ và Quản Trị nữa. Dự Án Manhattan, tên riêng của dự án chế tạo bom nguyên tử, được Tướng Leslie Groves thi hành. Ông này đã tín nhiệm Robert Oppenheimer hơn là các nhà bác học đương thời danh tiếng khác.

Từ giã Đại Học Đường, Robert Oppenheimer với tuổi 38, đã tỏ ra là một nhân vật xứng đáng giữ trọng trách đó. Ông đã thu được cảm tình của hầu hết các nhà bác học tài ba dưới quyền cũng như đối với các chuyên viên. Trung tâm nghiên cứu nguyên tử lực đầu tiên của Hoa Kỳ được đặt tại Los Alamos, gần thành phố Santa Fe trong tiểu bang New Mexico, nơi mà trước kia, ông Oppenheimer đã từng lang thang trên yên ngựa, đã biết từng đồi cát tới các con đường mòn. Nhà máy nguyên tử này thật là lạ lùng: nó vừa là nhà máy vì gồm có các cơ xưởng lớn, vừa giống như một tu viện vì mọi người làm việc quần quật suốt ngày, lại giống một trại lính vì đóng ở giữa sa mạc, chung quanh có hàng rào kẽm gai bao bọc và được canh phòng cẩn mật.

Trung tâm nguyên tử này có số vốn ban đầu là 60 triệu mỹ kim, lúc đầu chỉ gồm 400 người nhưng chẳng bao lâu tăng lên tới 4,500 công nhân. Người ta cố gắng làm việc nhưng vào thời kỳ đó, chưa ai có thể tiên đoán được sức phá nổ của nguyên tử vì từ trước tới giờ, lý thuyết nguyên tử vẫn còn nằm trong vòng giả thuyết. Tại trung tâm nghiên cứu, ông Robert Oppenheimer bắt đầu tìm kiếm một phương pháp tách chất Uranium - 235 ra khỏi Uranium thiên nhiên và xác định khối lượng tới hạn (critical mass) của Uranium là chất để làm ra quả bom. Trong giai đoạn nghiên cứu này, ông Robert Oppenheimer đã làm việc hơn 20 giờ mỗi ngày, người gầy dộc đi đến nỗi chỉ còn nặng 52 kilô, trọng lượng này thật là quá ít đối với một người cao 1,82 mét.

Ngày 16 tháng 7 năm 1945 là ngày quả bom nguyên tử đầu tiên được cho phát nổ thử tại sa mạc Alamogordo trong tiểu bang New Mexico. Một làn chớp sáng lòa rồi tiếp sau là một tiếng nổ long trời, làm cho mọi người tưởng chừng như được chứng kiến một trận động đất dữ dội vậy. Sau đó, khói đen bốc lên cao ngất trời theo hình một chiếc nấm vĩ đại. Trước cảnh tàn phá của thứ khí giới mới khủng khiếp này, ông Robert Oppenheimer mới nhớ tới một câu trong quyển Kinh Ấn Độ Bhagavad-Ghita : "Ta đã trở nên Tử Thần và làm cho nhiều Thế Giới run sợ, hãi hùng".

Sau khi 2 quả bom nguyên tử A thả xuống đất Nhật và chấm dứt chiến tranh, mọi người đều gọi ông Robert Oppenheimer là cha đẻ ra thứ bom A đó. Nhưng riêng Giáo Sư Robert Oppenheimer lại bắt đầu ngờ vực thứ võ khí khủng khiếp mà ông đã dày công chế tạo. Võ khí nguyên tử không những ảnh hưởng đặc biệt tới quân sự mà còn trở nên vấn đề liên quan tới nền Đạo Đức nữa. Sự tàn phá của bom nguyên tử lúc phát nổ rồi ảnh hưởng của bụi phóng xạ khi chất này tỏa rộng, lẫn vào trong không khí mà rơi xuống đại dương, theo gió mà bay tới các lục địa xa xôi, khiến cho mọi người e ngại về sự tồn vong của Nhân Loại.

Trong khi ông Robert Oppenheimer hối hận vì phát minh của mình thì vài nhà bác học khác lại nghĩ tới việc chế tạo một thứ bom khủng khiếp gấp ngàn lần: bom khinh khí H. Người ủng hộ dự án này một cách nhiệt liệt nhất là nhà bác học Edward Teller, người Mỹ gốc Hungary. Vì vậy tại Hoa Kỳ vào thời bấy giờ, có hai phe, người ủng hộ dự án chế tạo bom H, kẻ phản đối thứ khí giới quá khốc liệt đó. Trong khi chính quyền Hoa Kỳ còn đang phân vân thì thình lình, người ta báo tin rằng Liên Xô đã cho nổ thử một trái bom nguyên tử. Tin sét đánh này làm cho nhiều người sửng sốt, phe ủng hộ dự án chế tạo bom H đã thắng và Tổng Thống Harry Truman hạ lệnh chế tạo bom H đó. Được biết tin như vậy, ông Robert Oppenheimer liền bước ra khỏi phòng khảo cứu và tuyên bố dứt khoát: "Tôi không phải là một lái súng, tôi chỉ là một nhà bác học". Ông Robert Oppenheimer từ chức Giám Đốc Trung Tâm Nghiên Cứu Nguyên Tử vào tháng 8 năm 1945.

Từ năm 1947 tới năm 1953, ông Robert Oppenheimer là Giám Đốc của Viện Nghiên Cứu Cao Cấp thuộc trường Đại Học Princeton (the Institute for Advanced Study at Princeton University) và cũng là Chủ Tịch của Ủy Ban Cố Vấn của Ủy Ban Năng Lượng Nguyên Tử Hoa Kỳ (the U.S. Atomic Energy Commission = AEC). Ông cũng là vị cố vấn cho Bộ Quốc Phòng Mỹ và giúp công vào việc soạn thảo bản đề nghị đầu tiên của Hoa Kỳ về việc kiểm soát quốc tế năng lượng nguyên tử.

Năm 1953, một số tài liệu nguyên tử của Hoa Kỳ bị mất cắp. Phong trào chống Cộng Sản tại Mỹ đang lên bồng bột. Các nhà bác học nguyên tử là những người bị nghi ngờ. Ông Robert Oppenheimer cũng ở trong số đó. Hơn nữa, ông có giao du với một số phần tử Cộng Sản. Sở phản gián đã gom góp được nhiều tài liệu để kết tội ông. Các địch thủ của ông hùa nhau vào để hạ ông. Cũng có nhiều người đứng ra bào chữa cho ông như nhà Đại Bác Học Albert Einstein và Phó Tổng Thống Richard Nixon. Vào tháng 4 năm 1954, ông Robert Oppenheimer bị lôi ra trước một ủy ban điều tra của Ủy Ban Năng Lượng Nguyên Tử nhưng Tổng Hội Các Nhà Khoa Học Mỹ (the Federation of American Scientists) đã lên tiếng bảo vệ ông Oppenheimer trước tòa án. Vụ xét xử về an ninh này đã công bố rằng ông Robert Oppenheimer không phạm tội phản bội nhưng ông không được phép tiếp xúc với các bí mật quân sự. Kết quả là chức vụ cố vấn cho Ủy Ban Nguyên Tử Lực Hoa Kỳ của ông bị hủy bỏ. Sự lên án này đã làm sôi nổi dư luận tại Hoa Kỳ và tại châu Âu. Ông Robert Oppenheimer là một biểu tượng quốc tế của các nhà Khoa Học cố gắng giải quyết các vấn đề đạo đức (moral problems) sinh ra trong công cuộc khám phá Khoa Học và ông cũng trở nên một nạn nhân của công cuộc săn tìm phù thủy (a witch-hunt). Tuy đã bị mất chức, nhưng từ năm 1947 tới năm 1966, ông Robert Oppenheimer vẫn còn là Giám Đốc của Viện Nghiên Cứu Khoa Học Cao Cấp tại Princeton thuộc tiểu bang New Jersey. Tại Viện Khảo Cứu của tư nhân này, các nhà bác học lỗi lạc được tự do tìm tòi, làm sao cho thiên tài của họ được phát triển tối đa.

Vào năm 1963, Ủy Ban Năng Lượng Nguyên Tử Hoa Kỳ đã trao tặng ông Robert Oppenheimer phần thưởng Enrico Fermi. Đây là danh dự cao quý nhất để khen thưởng các đóng góp của ông vào nền Vật Lý Lý Thuyết. Nhiều người cho rằng công việc này là một cố gắng của Chính Phủ Hoa Kỳ để sửa chữa lỗi lầm khi trước. Ông Robert Oppenheimer về hưu năm 1966 và qua đời vào ngày 18 tháng 2 năm 1967 tại thành phố Princeton vì bệnh ung thư cổ.

Khi còn sinh thời, ngoài việc nghiên cứu Khoa Học và viết sách, ông Robert Oppenheimer còn ham thích các môn Hội Họa và Âm Nhạc. Phải chăng hai Nghệ Thuật này là các món ăn phụ của các đầu óc Khoa Học phi thường?

Vietsciences Phạm Văn Tuấn 06/06/2004

Julius Robert Oppenheimer (22 tháng 4 năm 1904 – 18 tháng 2 năm 1967) là một nhà vật lý lý thuyết người Mỹ, giáo sư Đại học California tại Berkeley. Là lãnh đạo thời chiến của Phòng thí nghiệm Los Alamos, ông là một trong số những cha đẻ của bom nguyên tử với vai trò trong Dự án Manhattan, dự án thời chiến tranh Thế giới thứ II phát triển các vũ khí hạt nhân đầu tiên.

Dự án Manhattan được xem là chương trình nghiên cứu khoa học có kinh phí chỉ đứng sau Dự án Chinh phục mặt trăng vào năm 1969 với 4,5 tỉ USD. Người được bổ nhiệm đứng đầu Dự án Manhattan là giáo sư vật lý Mỹ Julius Robert Oppenheimer, Giám đốc đầu tiên của Phòng thí nghiệm Quốc gia (LANL) có trụ sở đặt tại thành phố Los Alamos (tiểu bang New Mexico), người đi vào lịch sử như là "cha đẻ" của bom hạt nhân. Dưới quyền Giám đốc J. R. Oppenheimer quy tụ một đội ngũ các nhà khoa học hàng đầu thế giới, trong đó có 4 người đoạt Giải Nobel Vật lý là Niels Bohr, người Đan Mạch; Enrico Fermi, người Italia; Richard Feynman, người Mỹ gốc Do Thái và Hans Bethe, người Mỹ gốc Đức.

Oppenheimer sinh ra tại thành phố New York vào ngày 22 tháng 4 năm 1904, trong một gia đình Do Thái, cha là Julius Oppenheimer, một nhà nhập khẩu hàng dệt may giàu có di cư từ Đức tới Hoa Kỳ năm 1888, mẹ là họa sĩ Ella Friedman. Julius tới Mỹ với bàn tay trắng, không có bằng cấp, không biết chút gì về tiếng Anh. Cha Đẻ Bom Nguyên Tử là người Do Thái #nguoidothai #dandothai #dothai #hatnhan #nguyentu #vukhi #vukhihatnhan #vukhinguyentu #bomnguyentu #bomhatnhan #bomkhinhkhi #bomnhiethach #khinhkhi #nhiethach #nhatban Nguồn Thu Hường (theo Deutsche Welle) https://vi.wikipedia.org/wiki/Robert_Oppenheimer

Friday, June 9, 2017

Cái gì cũng có cái giá của nó

Cái gì cũng có cái giá của nó và trí thông minh bẩm sinh của người Do Thái cũng không ngoại lệ. Bạn có biết Người Do Thái Ashkenazi là dân tộc Thông Minh Nhất Thế Giới vì Gen của họ mang Nhiều Bệnh Di Truyền Gây Chết Người, được phát hiện bởi đôi giáo sư Mỹ.

Tác phẩm "The 10,000 Year Explosion" đưa ra những lý thuyết mới đầy tranh cãi về sự tiến hóa của con người được viết bởi hai giáo sư nhân chủng học Gregory Cochran và Henry Harpending tại đại học Utah.

Trong khi hầu hết các nhà lý thuyết tiến hóa học nói rằng nhân loại đã đạt đến mức độ cao nhất của sự tiến hóa, Cochran và Harpending khẳng định rằng nhân loại vẫn tiếp tục tiến hóa đến ngày nay, và với tốc độ nhanh hơn so với trong quá khứ.

Để kiểm chứng lý thuyết của họ, Cohran và Harpending (cả 2 là dân ngoại) - giải thích các chỉ số IQ cao bất thường của người Do Thái Ashkenazi là người Do Thái gốc Châu Âu.

Trong khi chỉ số IQ trung bình của người Châu Âu là 100, chỉ số IQ trung bình của người Do Thái gốc châu Âu là khoảng 107,5-115, người Do Thái Ashkenazi có tỷ lệ sản sinh thiên tài cao hơn người Châu Âu gấp 6 lần. Trong một bài báo năm 2005 xuất bản bởi Cochran và Harpending tựa đề "Natural History of Ashkenazi Intelligence" họ chỉ ra rằng "Trong thế kỷ 20, [Người Do Thái] chiếm khoảng 3% dân số Mỹ nhưng chiến thắng 27% các giải thưởng khoa học Nobel và 25% giải thưởng ACM Turing (Giải Turing được coi như là giải Nobel của Khoa Học Máy Tính). Người Do Thái Ashkenazi chiếm hơn một nửa các nhà vô địch cờ vua thế giới."

Các giáo sư khẳng định kết quả của trí tuệ Ashkenazi đến từ 3 yếu tố: trong lịch sử của người do thái rất hiếm lấy người khác chủng tộc, thời Trung Cổ người do thái thường xuyên bị đàn áp nên người Do Thái không được làm các công việc tay chân lao động thông thường mà phải làm các công việc đòi hỏi trí thông minh cao, do đó có tỷ lệ cao sản sinh những hạt giống thành công, và có khuynh hướng dễ bị các căn bệnh ảnh hưởng đến việc xử lý sphingolipids, các phân tử chất béo truyền các tín hiệu trong hệ thần kinh.

Người Do Thái Ashkenazi thường hay bị các căn bệnh di truyền chết người bao gồm bệnh Tay-Sachs, bệnh Canavan, bệnh Gaucher, và bệnh Niemann-Pick loại A.

Cochran và Harpending tin rằng điều này là lợi thế của dị hợp trong gien - có 2 bản sao của một gen đột biến gây ra vấn đề nghiêm trọng tới sức khỏe, nhưng có 1 bản sao thì thực sự có lợi ích tích cực cho sức khỏe.

Một bài báo gần đây về cuốn sách mới của Los Angeles Times trích dẫn một ví dụ nổi tiếng về lợi thế của dị hợp trong gen của những người gốc châu Phi. Những người có 2 gene hemoglobin B đột biến phát triển các suy nhược thiếu máu hồng cầu hình liềm, trong khi những người có một gen xấu làm cho các tế bào máu chỉ hơi biến dạng, nhưng vẫn hữu ích vì giúp họ miễn dịch với bệnh sốt rét.

Theo các nhà khoa học, lý thuyết này mở rộng áp dụng lên người Do Thái Ashkenazi khi có 2 gene đột biến sẽ phát triển các bệnh sphingolipid gây tử vong, nhưng với một gien đột biến thì trí thông minh phát triển vượt trội là do kết quả của sự gia tăng các hợp chất giúp thúc đẩy sự tăng trưởng và phân nhánh của các sợi thần kinh.

Các nhà khoa học cho biết, mặc dù các căn bệnh của người Do Thái dẫn đến tử vong chết chóc, họ vẫn tiếp tục được lưu truyền qua nhiều thế hệ vì giá trị cao và sự hấp dẫn của trí thông minh trong Văn Hóa của người Do Thái, những người sở hữu những gen đột biến chết chóc này tiếp tục kết hôn và sinh sản thật sớm trước khi bị chết bởi bệnh tật.

Cochran nói lời khẳng định của ông về trí thông minh của người Do Thái Ashkenazi sẽ tiếp tục gây tranh cãi do sự khó chịu của xã hội khi gắn mác một dân tộc thông minh hơn so với những dân tộc khác, mặc dù xã hội đã chấp nhận rằng một số dân tộc có chiều cao vốn cao hơn, lùn hơn hoặc nhanh nhẹn hơn. #nguoidothai #dandothai #dothai #thongminh #ditruyen #ungthu #suckhoe #thientai #thandong

http://www.israelnationalnews.com/News/News.aspx/131053

Saturday, June 3, 2017

Gen Di Truyền của người Do Thái Ashkenazi là người Châu Âu

Gen Di Truyền của người Do Thái Ashkenazi là người Châu Âu.

Nguồn gốc của người Do Thái Ashkenazi là một sự bí ẩn lớn. Nhưng nghiên cứu mới đây cho thấy phần lớn dòng dõi mẫu hệ (dòng Mẹ) của người Ashkenazi đến từ Châu Âu.

Mặc dù phát hiện này có thể có vẻ trực quan, và mâu thuẫn với quan điểm cho rằng người Do Thái châu Âu chủ yếu là những người Do Thái sống sót còn lại ở Israel và Trung Đông khoảng 2000 năm trước. Thay vào đó, tỷ lệ lớn dân số có nguồn gốc từ châu Âu ở vùng địa phương đã cải đạo sang Do Thái Giáo, nghiên cứu đồng tác giả Martin Richards, một nhà khảo cổ học gen di truyền tại Đại học Huddersfield ở Anh.

Có rất ít thông tin lịch sử của người Do Thái Ashkenazi trước khi họ bị trục xuất khỏi vùng Địa Trung Hải, và định cư ở vùng đất mà ngày nay là Ba Lan từ thế kỷ thứ 12. Trung bình thì tất cả người Do Thái Ashkenazi có gene di truyền liên quan chặt chẽ với nhau như anh em họ thứ 4 hoặc thứ 5, tiến sĩ Harry Ostrer, một giáo sư bệnh lý học, nhi khoa và di truyền tại Albert Einstein College of Medicine ở New York và là tác giả của "Legacy: A Genetic History of the Jewish People" (Oxford University Press, 2012).

Nhưng tùy thuộc vào dòng dõi để xét nghiệm thông qua gien di truyền của mẹ hoặc cha hay thông qua phần còn lại của bộ gen, các nhà nghiên cứu có câu trả lời rất khác nhau cho dù Ashkenazi ban đầu đến từ châu Âu hay vùng Cận Đông.

Nghiên cứu trước đây cho thấy 50% đến 80% gene di truyền từ các nhiễm sắc thể Y Ashkenazi, được sử dụng để theo dõi các dòng nam, có nguồn gốc ở vùng Cận Đông, Richards nói. Điều đó cho thấy người Do Thái đến từ Israel và phần lớn từ chối kết hôn khác chủng tộc khi họ định cư ở châu Âu. [The Holy Land: 7 Amazing Archaeological Finds]

Nhưng các tài liệu lịch sử kể một câu chuyện hơi khác. Căn cứ vào các tài khoản của những sử gia Do Thái Flavius Josephus, trong thời gian ngôi đền thứ hai bị hủy diệt trong năm 70 sau công nguyên, 6 triệu người Do Thái đang sống trong đế quốc La Mã, nhưng bên ngoài Israel, chủ yếu là ở Ý và Nam Âu. Ngược lại, chỉ có khoảng 500.000 người Do Thái sống ở xứ Judea, Ostrer nói, người không tham gia trong nghiên cứu mới cho biết.

"Các cộng đồng Do Thái lớn ở ngoài xứ Judea," Ostrer nói với LiveScience.

Gien di truyền mẫu hệ

Richards và các đồng nghiệp đã phân tích các ty thể của DNA, được chứa trong  chất  tế bào của trứng và truyền lại chỉ từ mẹ, từ hơn 3.500 người trên khắp vùng Cận Đông, Caucusus và châu Âu, bao gồm cả Ashkenazi Do Thái.

Nhóm nghiên cứu phát hiện ra rằng 4 bà mẹ tổ tiên chiếm 40% DNA ty thể của người Ashkenazi, và rằng tất cả các bà mẹ tổ tiên có nguồn gốc ở châu Âu. Đa số những người còn lại có thể truy tìm nguồn gốc từ dòng dõi châu Âu khác.

Hơn 80% dòng mẹ của người Ashkenazi Do Thái có nguồn gốc từ Châu Âu, chỉ với một vài dòng có nguồn gốc ở vùng Cận Đông.

Hầu như không đến từ Bắc Caucasus, nằm dọc theo biên giới giữa châu Âu và châu Á giữa các vùng biển Đen và biển Caspi.

Phát hiện triệt để này vạch trần một trong những giả thuyết nghi ngờ nhất, nhưng vẫn dai dẳng nhất: người ta cho rằng hầu hết người Ashkenazi Do Thái có thể có nguồn gốc từ Vương Quốc Khazar bí ẩn phát triển rực rỡ trong thế kỷ thứ 9 ở khu vực giữa Đế chế Byzantine và Đế chế Ba Tư, Richards và Ostrer nói.

Các nhà di truyền học cho thấy nhiều bà mẹ tổ tiên Ashkenazi thực sự là những người phụ nữ Châu Âu địa phương cải đạo sang Do Thái Giáo.

"Lời giải thích đơn giản nhất là đa số phụ nữ cải đạo sang Do Thái Giáo để kết hôn với những người đàn ông vùng Cận Đông," Richards nói với LiveScience.

Một khả năng khác là người Do thái tích cực cải đạo cả nam giới và phụ nữ trong số những người dân địa phương vào thời điểm đó, mặc dù các nhà nghiên cứu sẽ cần nghiên cứu chi tiết hơn về dòng dõi của cha để kiểm tra giả thuyết này, Richards nói.

Nguồn http://www.livescience.com/40247-ashkenazi-jews-have-european-genes.html
Tác giả Tia Ghose, Staff Writer | October 8, 2013 11:00 am ET

Saturday, May 20, 2017

Chúa Jesus Tóc Đỏ ?

Chúa Jesus Tóc Đỏ Chúa Giê Su Tóc Đỏ Chúa Giê-su có tóc Đỏ Chúa Giêsu với Tóc đỏ
Các bức họa mô tả chân dung Chúa Giê Su thay đổi rất nhiều tùy vào nền văn hoá Kitô giáo khác nhau. Một số vẫn cho thấy Chúa Giêsu tóc nâu mắt xanh, tượng trưng cho nền văn hoá của họ, trong khi những người khác lại cho rằng Chúa Giê-su giống người Ả Rập. Một số thậm chí còn cho rằng Chúa Jesus là người da đen.

Mặc dù có nhiều màu sắc về Chúa Kitô trong các biểu tượng qua nhiều năm, nhưng có một điểm đặc biệt vắng mặt ngay cả trong thần thái chủng tộc Ấn-Âu chủ yếu thường mô tả Chúa Ki Tô. Đó là điều mà Quỹ Bảo tồn Nhà Thờ Anh Quốc đã tìm cách sửa chữa vào ngày Chủ Nhật Quốc Gia Củ Gừng hay Chủ Nhật Quốc Gia Tóc Đỏ.
Trước ngày lễ Củ Gừng hay ngày lễ Tóc Đỏ, nhóm phát hành bức ảnh kính màu của gương mặt Chúa Giê Su với mái tóc vàng dâu bồng bềnh xuất hiện trong Nhà thờ Chúa Ba Ngôi ở Sunderland, một thị trấn nhỏ ở miền bắc nước Anh. Mặc dù không phải nói đó là bằng chứng dứt khoát về nguồn gốc của Chúa Giê-su. Theo The Mirror, đó là Chúa Giêsu Tóc Đỏ duy nhất được tìm thấy ở bất cứ nơi nào trong Vương quốc Anh.

Đấng KiTô tóc Đỏ là một phần của cấu trúc nhà thờ trong hơn 150 năm. Thiết kế lần đầu tiên bởi nghệ sĩ kính màu William Wailes nổi tiếng vào năm 1857, anh đã vẽ lại hình ảnh Chúa Giêsu giống như trong các nhà thờ trên khắp đất nước nhiều lần. Sự biểu hiện đặc biệt này của Đức Ki Tô, vì một lý do nào đó, dường như đã xuất hiện một cách khác biệt, mặc dù không rõ là Wailes đã đưa ra một quyết định có ý thức để miêu tả Chúa Jesus củ gừng (Chúa Giê-su Tóc Đỏ) - hoặc nếu chỉ có một lỗi nào đó trong quá trình nghệ thuật.
Mặc dù khả năng Chúa Giê Su Tóc Đỏ là rất thấp về mặt thống kê, nhưng có một khả năng là hình ảnh kính màu này có thể mang lại một số sự thật về điều đó. Rốt cuộc, Chúa Giêsu được mọi người tin rằng có nguồn gốc Do Thái và ngày nay còn có những người Do Thái tóc Đỏ.
Illustration by Josie Jammet
Trong thời cổ đại và thời trung cổ ở Châu Âu, có thể có một mối liên hệ thậm chí mạnh mẽ hơn giữa người Do Thái và người Tóc Đỏ. Điển hình là Esau, Vua David, Shylock và Judas thường được mô tả với mái Tóc đỏ, nổi bật lên nhờ nguồn gốc Trung Đông của dân Do Thái, theo Ernest Abel, tác giả của các Bệnh Di Truyền người Do Thái: A Layman’s Guide.

"Có một tỷ lệ cao hơn về người Do Thái Tóc Đỏ hơn bạn có thể mong đợi từ thực tế rằng họ đến từ Trung Đông và hầu hết mọi người ở Trung Đông có mái tóc màu tối."
người Do Thái Tóc Đỏ
Nếu Chúa Jesus có Tóc Đỏ, ông ấy sẽ là một trong số khoảng 1 đến 2 phần trăm dân số ngày nay mang gien di truyền bị đột biến đó.

Nguồn http://www.inquisitr.com/1867433/was-jesus-christ-a-ginger-church-conservation-group-releases-controversial-depiction/
[Hình ảnh qua Giáo Hội Chúa Ba Ngôi và Thư viện Hình ảnh / Getty Images của De Agostini]

Sunday, May 14, 2017

Ca Dao Tục Ngữ Do Thái về Mẹ

Ca Dao Tục Ngữ Do Thái về Mẹ
Ca Dao Tục Ngữ của người Do Thái về Mẹ

Thiên Chúa không thể ở khắp mọi nơi, nên Ngài tạo ra người mẹ. Tục ngữ Do Thái
Got hot nit gekent zayn imetum, hot er beshafn mames. “God couldn’t be everywhere, so He created mothers.”

Friday, May 12, 2017

Sự tạo thành chữ Quốc ngữ

Đóng góp của Thiên Chúa giáo Người có công lao to lớn trong việc hình thành chữ Quốc Ngữ là Alexandre de Rhodes linh mục Công Giáo gốc Do Thái

Ths. Phạm Thị Thanh Huyền, Khoa Lịch sử, trường Đại học Sư phạm Hà Nội

Trích đoạn từ bài 'Một số đóng góp của Thiên Chúa giáo đối với văn hóa Việt Nam (thế kỷ 17 - đầu thế kỷ 20)'

Sự tạo thành chữ “Quốc ngữ”

Đây là một trong những đóng góp quan trọng nhất của các giáo sĩ đạo Thiên Chúa đối với văn hoá Việt Nam, tất nhiên đóng góp này nằm ngoài ý thức chủ quan của các nhà truyền đạo khi sáng tạo ra chữ Quốc ngữ.

Động cơ chủ yếu và trước hết của các giáo sĩ Thừa sai khi sáng tạo ra chữ Quốc ngữ là để phục vụ cho cuộc truyền giáo.

Xuất phát từ mục đích để hoạt động truyền giáo có hiệu quả nên các Thừa sai đã Latinh hoá tiếng Việt để tạo ra một loại văn tự mới đó là chữ Quốc ngữ.

Chữ Quốc ngữ ra đời chính xác vào thời gian nào, cho đến nay vẫn chưa xác định được, nhiều người cho rằng thời điểm sáng tạo ra chữ Quốc ngữ là khoảng từ năm 1620 đến năm 1651, công lao đầu tiên thuộc về các nhà truyền giáo dòng Tên. “Thời gian đầu, từ 1615 - 1663, chỉ có các nhà truyền giáo dòng Tên đến làm việc trong vùng đất Chúa Trịnh, Chúa Nguyễn, đã cùng nhau đóng góp vào công trình tạo ra chữ Quốc ngữ. Năm 1651 in sách Quốc ngữ. Sau đó còn nhiều công trình do nhiều người đã làm cho thứ chữ này hoàn chỉnh hơn, phổ biến hơn suốt từ thế kỷ XVII đến cuối thế kỷ XIX”.

Lúc đầu, chữ Quốc ngữ là thứ chữ ghi âm nhưng chưa định hình, chưa phản ánh một cách khoa học và trung thực cơ cấu ngữ âm của tiếng Việt, còn chịu ảnh hưởng sâu đậm tiếng nói và chữ viết của người Bồ Đào Nha, người Ý, người Pháp. Ví dụ: để ghi từ “sách”, người ta viết sayc, để ghi từ “nước mặn”, người ta viết nuocman, để ghi từ “ông nghè”, người ta viết ungue, ungué, ungné, ounghe, oungueh…. Hay người ta viết ũ để ghi vần ung (ví dụ cũ = cung), viết oũ để ghi vần ông, (ví dụ soũ = sông). Nhưng dần dần qua nhiều lần cải tiến, chữ Quốc ngữ đã đạt đến dạng hoàn chỉnh như ngày nay.

Cho đến nay, nhiều nhà nghiên cứu đã cho rằng người có công đầu tiên tạo ra chữ Quốc ngữ là Thừa sai Francisco de Pina, người Bồ Đào Nha. Pina sinh năm 1585 tại Guarda, gia nhập dòng Tên lúc 20 tuổi.

Ông đến Đàng Trong năm 1617, “là nhà truyền giáo đầu tiên biết Tiếng Việt, cũng là tu sĩ dòng Tên đầu tiên soạn một tập nhỏ về chính tả cùng các dấu thinh của tiếng Việt và năm 1622 bắt đầu soạn ngữ pháp tiếng Việt”.

Qua nghiên cứu cuốn sách “Công trình của một số nhà tiên phong Bồ Đào Nha trong lĩnh vực ngôn ngữ học Việt nam cho đến năm 1650” của Roland Jacque (nhà ngôn ngữ học người Pháp), Nguyễn Phước Tương cũng cho rằng “chúng ta có đủ cơ sở khoa học để kết luận rằng giáo sĩ dòng Tên đầu tiên có công trình phiên âm tiếng Việt thành chữ Quốc ngữ chậm nhất vào năm 1623, trước khi Alexandre de Rhodes đến Đàng Trong vào năm 1624, có tên gọi là “Nhập môn tiếng Đàng Ngoài” là Francisco de Pina”.

Sau Francisco de Pina, phải kể đến giáo sĩ Gaspar d’Amaral, người đã biên soạn cuốn “Từ điển Bồ - Việt” vào những năm 1636 - 1645, và giáo sĩ Antonia de Barbosa, ông đã biên soạn cuốn “Từ điển Việt - Bồ” trước khi Alexandre de Rhodes biên soạn và in cuốn “Từ điển Việt - Bồ - Latinh” vào năm 1651.

Nhưng người có công lao to lớn trong việc hình thành chữ Quốc ngữ đó chính là Alexandre de Rhodes (hay còn gọi là cha Đắc Lộ). Ông sinh năm 1593 tại tỉnh Avignon, nước Pháp, là người gốc Do Thái.

Năm 1612, Alexandre de Rhodes gia nhập vào dòng Tên ở Rôma, năm 1618, ông được thụ phong linh mục khi mới tròn 25 tuổi.

Những công trình đáng kể của Alexandre de Rhodes là “Từ điển Việt - Bồ - Latinh” (Dictionarum Anamiticum Lusitanum et Latinum) và cuốn “Phép giảng tám ngày” (Cathechimus). Cả hai cuốn đều được đúc chữ và ấn hành ở Rôma vào năm 1651. Có thể coi đây là hai cuốn sách đầu tiên được in bằng chữ Quốc ngữ. Cho đến cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX, cuốn từ điển của Alexandre de Rhodes vẫn được coi là tài liệu cơ bản để học tập và nghiên cứu tiếng Việt qua chữ Quốc ngữ.

Các thế hệ Thừa sai sau Alexandre de Rhodes tiếp tục theo gương ông biên soạn các loại từ điển tiếng Việt có bổ sung và ngày càng hoàn chỉnh hơn.

Đáng kể là năm 1838, một cuốn từ điển mới, đối chiếu hai thứ tiếng Việt - Latinh, Latinh - Việt có ghi thêm chữ Nôm bên cạnh chữ Quốc ngữ, được gọi là “Nam Việt dương hiệp tự vị” (Dictionarium anamitico latinum) do Giám mục Taberd biên soạn, được xuất bản ở Serampur - Ấn Độ. Về cơ bản, chữ Quốc ngữ trong cuốn từ điển này đã có dạng thức như chữ Quốc ngữ ngày nay. Đó là một trong những tài liệu cơ sở được dùng để nghiên cứu tiếng Việt thế kỷ XIX.

Tóm lại, chữ Quốc ngữ đã trải qua một quá trình liên tục cải tiến để được hoàn chỉnh như ngày nay, song chúng ta không thể phủ nhận công lao đầu tiên sáng tạo ra hình dạng của nó thuộc về các Thừa sai Thiên Chúa giáo, nhất là các thừa sai dòng Tên gốc Bồ Đào Nha.

Kể từ lúc ra đời cho tới cuối thế kỷ XIX, chữ Quốc ngữ đã dần dần được hoàn thiện từng bước nhằm phục vụ cho công cuộc truyền giáo như in kinh bổn và các sách giáo lý. Nó cũng là phương tiện ghi chép những hoạt động của các giáo sĩ và giáo dân. Như vậy, trải qua hơn hai thế kỷ sau khi ra đời, phạm vi sử dụng của chữ Quốc ngữ chỉ hạn chế trong khuôn khổ nhà thờ và giáo dân.

Cùng với việc xâm chiếm Nam Bộ, thực dân Pháp chủ trương mở rộng việc phổ biến chữ Quốc ngữ để đào tạo tay sai thừa hành và đẩy mạnh công cuộc tuyên truyền lừa bịp.

Sau khi thực dân Pháp đánh chiếm sáu tỉnh Nam Kỳ (1867), chữ Quốc ngữ được chính thức dạy ở các trường “tân học” ở Nam Kỳ.

Ngày 22/2/1869, Thống đốc Nam Kỳ ra Nghị định “Kể từ ngày 1 tháng 4 năm 1869, tất cả các giấy tờ chính thức đều sẽ được viết và công bố bằng mẫu tự Âu châu”. Chủ ý của chính sách này đã được Giám mục Puginier nói ra một cách rõ ràng: “Sau khi đạo Thiên Chúa đã được thiết lập, tôi coi việc bãi bỏ chữ Hán và thay thế trước tiên bằng chữ Quốc ngữ, sau bằng chữ Pháp, là một phương pháp rất chính trị, rất thực tế và rất hữu hiệu để lập ra ở Bắc kỳ một nước Pháp nhỏ ở Viễn Đông… Một khi đã đạt được kết quả to lớn đó, chúng ta đã đoạt được từ Trung Quốc phần lớn ảnh hưởng ở xứ An Nam và giới nho sĩ An Nam vốn rất thù ghét sự thiết lập thế lực Pháp sẽ bị tiêu diệt dần dần”.

Điều này đã gây ra sự ác cảm của các sĩ phu đối với chữ Quốc ngữ, vì họ cho rằng đấy là “chữ của Tây”, không học “abc” cũng có nghĩa là bất hợp tác với Tây.

Cụ Đồ Chiểu đã kiên quyết không cho con cái đi học thứ chữ này. Trong phong trào Cần Vương và các phong trào khác của văn thân sĩ phu yêu nước, chữ Hán và chữ Nôm được coi là những vũ khí tinh thần lợi hại để chống lại thực dân Pháp.

Tuy vậy, vào khoảng cuối thế kỷ XIX đã xuất hiện một số văn bản Quốc ngữ ghi lại các truyện Nôm như Kiều, Lục Vân Tiên, Quốc sử diễn ca và một số bản dịch tiếng Việt các sách kinh điển Nho học như Trung dung, Đại học in bằng chữ Quốc ngữ. Cũng trong thời gian này, một số tác phẩm viết bằng chữ Quốc ngữ đầu tiên đã được lưu hành như Chuyện đời xưa, Chuyện khôi hài, Chuyến đi thăm Bắc Kỳ năm Ất Hợi…

Sang đầu thế kỷ XX, thực dân Pháp tiếp tục đưa chữ Quốc ngữ vào các hoạt động nhà nước và xã hội nhằm phục vụ cho công cuộc bình định và cai trị của chính quyền thực dân. Một viên Thống sứ đã viết trong bản tường trình: “Việc truyền bá chữ Quốc ngữ chỉ có thể coi là rất có lợi cho sự mở rộng ảnh hưởng của chúng ta trong xứ này và làm cho quan hệ của chúng ta với người bản xứ được dễ dàng…”. Tuy nhiên, thực dân Pháp cũng chủ trương không nên xoá bỏ hoàn toàn chữ Nho vì cho rằng chữ Nho sẽ góp phần đắc lực trong việc duy trì tình trạng lạc hậu về mọi mặt của xã hội Việt Nam.

Đông Kinh Nghĩa Thục, một tổ chức vận động cách mạng, đã ra sức cổ động cho việc học tập và phổ biến chữ Quốc ngữ. Trong tập “Văn minh tân học sách” do Hội xuất bản năm 1907, khi nêu 6 việc cần phải xúc tiến để mở mang dân trí, việc sử dụng rộng rãi chữ Quốc ngữ được đặt lên hàng đầu.

Có thể nói, sự ra đời của chữ Quốc ngữ là một cuộc cách mạng trong lịch sử hình thành chữ viết của dân tộc ta. Trước khi chữ Quốc ngữ xuất hiện, ở Việt Nam đã tồn tại chữ Hán và chữ Nôm.

Trong suốt một thời gian dài, chữ Hán được sử dụng như một văn tự chính thức của nước ta. Mặc dù vậy, giữa chữ Hán và tiếng Việt vẫn có một sự khác biệt rất căn bản. Người Việt Nam chỉ viết và đọc chữ Hán nhưng không nói ngôn ngữ Hán. Các văn bản bằng chữ Hán nếu muốn cho người Việt hiểu được phải thông qua phiên dịch. Vì thế, người Việt đã sáng tạo ra chữ Nôm theo phương pháp hình thanh và hội ý của chữ Hán để ghi âm tiếng Việt. Nhưng chữ Nôm vẫn là một văn tự quá phức tạp, lại không được các triều đình phong kiến Việt Nam ủng hộ nên nó chưa đạt tới trình độ chuẩn xác và thống nhất cao giữa các địa phương.

Trong khi đó chữ Quốc ngữ lại có khả năng biểu thị chính xác bất kỳ âm thanh nào của tiếng Việt, cấu tạo lại đơn giản, dễ học, dễ nhớ, người Việt chỉ cần học 3 tháng là đã có thể sử dụng được chữ Quốc ngữ. Do đó, chữ Quốc ngữ ra đời đã kết thúc thời kỳ kéo dài sự cách biệt giữa tiếng Việt và chữ viết. Đây là lý do quan trọng nhất khiến cho chữ Quốc ngữ ngày càng được phổ biến và sử dụng rộng rãi và có vai trò to lớn trong sự phát triển văn hoá Việt nam các thời kỳ sau này. Nguồn http://www.bbc.com/vietnamese/specials/170_viet_studies/page9.shtml

Sunday, April 30, 2017

Tại sao có người Do Thái tóc Vàng ?

Tại sao có người Do Thái tóc Vàng ?
Giải thích thật sự về sự tồn tại của người Do Thái tóc Vàng là một chủ đề thảo luận sôi nổi giữa các nhà nhân chủng học. Một số người tin rằng đó là do khí hậu và môi trường (Pruner, Bey, Pritchard, Jacobs), trong khi những người khác cho rằng là do sự pha trộn chủng tộc, đặc biệt là sự thừa nhận dòng máu Aryan trong người Do Thái hiện đại (Broca, Virchow, Schimmer, Ripley, và những người khác).
Elkind cho thấy rằng màu tóc không phụ thuộc vào chỉ số hộp sọ. Các cuộc điều tra của Virchow cho thấy ở các tỉnh miền Đông hoặc tăm tối nhất (màu da màu tóc) của nước Đức có tỷ lệ các loại tóc vàng trong dân số Do Thái không giảm; Trong khi ở các tỉnh của Phổ, vốn có màu vàng rực rỡ, người Do Thái cho thấy tỷ lệ cao nhất của người Do Thái tóc Nâu, và ở Silesia, nơi mà dân ngoại có nước da màu tóc tối, người Do Thái lại có tỉ lệ cao về tóc vàng.
Điều này cũng đã được Schimmer trình bày ở Áo. Andree ("Zur Volkskunde der Juden," trang 34-40) chỉ ra rằng thực tế là những người do thái tóc Đỏ và người do thái tóc Vàng được tìm thấy ở Bắc Phi, Syria, Ả rập, Ba Tư, vân vân ... là bằng chứng cho thấy rằng việc kết hôn khác chủng tộc rất ít liên quan gì đến việc sản sinh ra các loại tóc vàng ở Đông Âu. Ông ta có ý kiến cho rằng những người dân tóc Vàng xuất hiện trong số những người Hebrew cổ đại và những người Do Thái hiện đại bao gồm dân do thái tóc Đỏ và dân do thái tóc Vàng là con cháu của họ. Luschan đồng ý theo quan điểm này.
Jacobs đã cho thấy rằng nước da đỏ hồng của người Do Thái do bị suy dinh dưỡng không chỉ có trong số những người Do Thái ở Châu Âu, mà cả những người ở Algiers, Tunis, Bosnia, Constantinople, Smyrna, và Bokhara, nơi sự hiện diện của dòng máu Aryan không thể thừa nhận.
Nguồn http://www.jewishencyclopedia.com/articles/7061-hair#anchor10
#nguoidothai #dandothai #dothai #tocvang #tocnau #tocdo #nhanchunghoc #chungtoc #chungtocdothai #dantocdothai