Sunday, June 13, 2021

Vì sao người Do Thái Ashkenazi có chỉ số Thông Minh IQ rất cao

Vì sao người Do Thái Ashkenazi có chỉ số Thông Minh IQ rất cao ? - 20 lời giải thích khả thi

Người Do Thái Ashkenazi nói chung là rất thông minh, gây kinh hoàng sửng sốt với sức mạnh ấn tượng của bộ não. Làm cách nào mà họ được như vậy ? Người Do Thái Ashkenazi là con cháu của những người do thái thời trung cổ ở vùng Alsace và Rhine Valley, và sau này ở khắp Đông Âu. Về nguồn gốc, dĩ nhiên họ đến từ Israel. Dựa theo nghiên cứu gene di truyền của Albert Einstein College of Medicine cho thấy, dòng máu người do thái Ashkenazi tách ra khỏi những nhóm Do thái khác cách đây 2500 năm, và 40% người Do Thái Ashkenazi là hậu duệ của 4 bà mẹ Do Thái duy nhất.

Ngày nay, khoảng 80% tổng số người Do Thái là Ashkenazi, và phần còn lại chủ yếu là người do thái Sephardi.

Các nhà nghiên cứu về người do thái Ashkenazi đồng ý rằng con cháu của Abraham đứng top đầu trong bảng xếp hạng chỉ số thông minh IQ. Steven Pinker - người giảng về Jews, Genes, and Intelligence năm 2007 - cho biết rằng chỉ số trí tuệ IQ trung bình của người do thái đã được 108-115. Richard Lynn, tác giả của The Intelligence of American Jews năm 2004, nói rằng đó là " chỉ có "một nửa tiêu chuẩn cao: 107,5. Henry Harpending, Jason Hardy, và Gregory Cochran, Đại học Utah tác giả của nghiên cứu năm 2005, Natural History of Ashkenazi Intelligence, cho thấy, điểm 0,75-1,0 độ lệch chuẩn trên mức trung bình chung so với dân số châu Âu, tương ứng với IQ 112-115. Charles Murray, trong bài tiểu luận năm 2007 của ông là bài Jewish Genius, nói rằng chỉ số thông minh trung bình của người do thái là ở đâu đó trong khoảng 107-115, với 110 là một sự ước tính hợp lý.

Chỉ số thông minh IQ trung bình của người Do Thái là 115 cao hơn so với chỉ số IQ thông minh trung bình của các đối thủ người Châu Á vùng Đông Bắc và cao hơn 40% so với chỉ số trí tuệ thông minh IQ trung bình toàn cầu là 79,1 tính bởi Richard Lynn và Tatu Vanhanen tại IQ và Global Inequity.

Thêm vào đó, hãy chiêm ngưỡng sự ngon miệng đáng kinh ngạc này: Điểm số thông minh IQ về "trí thông minh không gian thị giác" của người do thái Ashkenazi chỉ tầm thường hạng xoàng; trong một nghiên cứu, điểm số trung bình về trí thông minh không gian thị giác của người do thái Ashkenazi có mức trung bình thấp hơn 98. Người do thái Ashkenazi bù lại cho điểm yếu chết người này bằng cách khai thác các chỉ số thông minh khác là "trí thông minh IQ ngôn ngữ", bao gồm lý luận bằng lời nói, khả năng hiểu, khả năng ghi nhớ và kỹ năng toán học; một cuộc khảo sát năm 1958 đánh giá khả năng của các sinh viên trong chủng viện Do Thái, đã phát hiện ra rằng chỉ số thông minh trí tuệ IQ trung bình về khả năng ngôn ngữ của các sinh viên chủng viện người do thái Ashkenazi là 125,6.

Vầy thì điều đó có nghĩa gì nếu người do thái Ashkenazim có chỉ số thông minh IQ cao, về mặt sản xuất "các thiên tài"? Với dân số người do thái Ashkenazic quá ít ỏi - người do thái Ashkenazi chỉ chiếm 0,25% tổng số trên thế giới - liệu điều này có tạo ra bất kỳ sự khác biệt đáng kể nào? Câu trả lời là CÓ. Một "đường cong chuông" được sử dụng để minh họa chỉ số thông minh IQ trong một nhóm cụ thể - trong một "dân số chung", mà chỉ số thông minh trung bình IQ là 100, đường cong giả định tỷ lệ này:

ít hơn 70 IQ - 2.5%
70-85 IQ - 12.5%
86-100 IQ - 35%
101-115 IQ – 35%
116-130 IQ – 12.5%
nhiều hơn 130 IQ – 2.5%

Áp dụng đường cong chuông này cho người do thái Ashkenazi, nhưng với mức tăng cao hơn 17 điểm chỉ số thông minh IQ trung bình (sử dụng mã From Chance To Choice) sẽ tạo ra bản nâng cấp trí thông minh IQ dưới đây:

ít hơn 87 IQ – 2.5%
88-102 IQ – 12.5%
103-117 IQ – 35%
118-132 IQ – 35%
133-148 IQ – 12.5%
nhiều hơn 148 IQ – 2.5%

Sự chuyển hướng trở lên của đường cong chuông nhiều hơn độ lệch tiêu chuẩn (15 điểm) có nghĩa là số lượng người do thái Ashkenazi có đủ điều kiện để làm thành viên Mensa (chỉ số thông minh tối thiểu yêu cầu là 130 IQ) cao hơn năm lần và người do thái Ashkenazi có chỉ số thông minh IQ trung bình của một sinh viên thuộc Liên đoàn Ivy đã tốt nghiệp thì nhiều hơn năm lần.

Trong thực tế thì số lượng học sinh người do thái Ashkenazi được ghi danh vào Liên Đoàn Ivy có tỷ lệ nhiều hơn mười lần con số của họ;

Ví dụ cho thấy, người do thái Ashkenazi chiếm 30% tổng số sinh viên Viện Đại Học Yale,
người do thái Ashkenazi đóng góp 27% tổng số học sinh Đại Học Harvard,
23% tổng số sinh viên của Viện Đại Học Brown là người do thái Ashkenazi,
32% tổng số học sinh Trường Đại Học Columbia là người do thái Ashkenazi,
và người do thái Ashkenazi cũng chiếm 31% tổng số học sinh Viện Đại Học Pennsylvania.

Điều này cho thấy rằng "đường cong chuông" của người do thái Ashkenazi được nâng lên cao một chút và cũng dài hơn ở phía đoạn cuối hoặc là có những yếu tố bổ sung để nâng cao khả năng thành công của người do thái.

Về khả năng đầu tiên, Charles Murray lưu ý rằng, tỷ lệ người Do Thái có chỉ số IQ từ 140 trở lên là khoảng sáu lần so với tỷ lệ của những người khác. Harpending, Hardy và Cochran cho thấy sự tương đương nhau; cứ mỗi 4 người trong số 1.000 người Bắc Âu thì có chỉ số thông minh IQ là 140 trở lên, nhưng cứ mỗi 23 người trong số 1,000 người Do Thái thì có chỉ số thông minh IQ là 140 trở lên. Murray cũng chuyển tiếp một báo cáo cho thấy sự nhảy vọt cao chót vót trong phạm vi thiên tài, khi ông ghi nhận rằng một điều tra năm 1954 khảo sát khả năng của các trẻ em ở trường công New York với chỉ số thông minh IQ là 170 trở lên, cuộc điều tra này đã tiết lộ rằng 24 nhi đồng trong số 28 thiếu nhi là ... người Do Thái.

Bây giờ tôi xác định rằng người do thái Ashkenazi có chỉ số thông minh IQ cao nhất, chúng mình hãy quan sát những thành tựu của người do thái Ashkenazi đã đạt được với bộ não có chức năng cao của họ.

Vào thế kỷ thứ 19 văn hào Mark Twain nhận xét rằng: [ Người Do Thái ] đóng góp vào danh sách các danh nhân văn hóa thế giới trong văn học, khoa học, nghệ thuật, âm nhạc, tài chính kinh doanh thương mai, y khoa, và sự học thức sâu sắc vượt xa so với sự yếu kém là dân số ít ỏi của người Do Thái. Anh ấy ( người do thái ) đã chiến đấu một cách kỳ diệu trong thế giới này ... và đã làm điều đó với hai bàn tay bị trói buộc phía sau lưng anh ta.

Đánh giá của văn hào Twain không phải là lỗi thời. Người Do Thái Ashkenazi vẫn tiếp tục tinh thần cạnh tranh với các nguồn nhân lực khác kể từ ngày Twain tuyên bố câu ấy, người do thái thường chịu đựng những hậu quả khủng khiếp cho sự chăm chỉ của họ. Dưới đây là danh sách ngắn những thành tựu của người do thái Ashkenazi trong 90 năm qua.

Giải Nobel: Kể từ năm 1950, 29% số giải thưởng Nobel đã được trao cho người do thái Ashkenazi, mặc dù người do thái Ashkenazi chỉ chiếm một phần rất nhỏ bé của nhân loại. Thành tích của người do thái Ashkenazi trên đấu trường này cao gấp 117 lần so với dân số bé nhỏ của họ. Tốc độ này không chậm lại; nó đang tăng tốc. Trong thế kỷ 21, người do thái Ashkenazi đã nhận được 32% trong tổng số giải thưởng Nobel, và vào năm 2011, năm trong số mười ba người đoạt giải Nobel là người Do Thái - 38,5% tổng số giải Nobel.

Hung Gia Lợi vào thập niên 1930s: Người do thái Ashkenazi chiếm 6% tổng dân số ở Hung Gia Lợi nhưng người do thái Ashkenazi lại chiếm 55,7% bác sĩ, 49,2% luật sư, 30,4% kỹ sư và 59,4% công chức ngân hàng; cộng thêm 49,4% người do thái Ashkenazi là các ông chủ sở hữu ngành công nghiệp luyện kim, 41,6% ông chủ người do thái Ashkenazi chiếm lĩnh ngành kỹ nghệ sản xuất máy móc, 72,8% ông chủ người do thái Ashkenazi thống trị ngành công nghiệp sản xuất quần áo may mặc, và trong vai trò là những ông chủ chung cư thì người do thái Ashkenazi đã nhận được 45,1% thu nhập từ việc cho thuê mướn căn hộ ở thành phố Budapest thủ đô nước Hungary. Người Do Thái cũng đã thành công tương tự ở những quốc gia gần đó, là Ba Lan và Đức.

Những nhân vật quan trọng : Trong cuốn sách Thiên Tài người Do Thái của Charles Murray, tác giả liệt kê danh sách các nhân vật đã đóng góp quan trọng trong nhiều ngành nghề khác nhau, nhận xét cho thấy những người Do Thái xuất hiện quá nhiều so với những gì có thể mong đợi từ dân số nhỏ bé ít ỏi của họ. Kết luận của ông trong các lãnh vực khác nhau là: Sinh học - "đáng kể là" Người Do Thái xuất hiện gấp 5 lần dân số của họ, Hóa học 6X, Vật lý 9X, Văn học 4X, Âm nhạc 5X, Nghệ thuật thị giác 5X, Toán học 12X, và Triết học 14X.2

Nước Mỹ ngày nay: Người Do Thái Ashkenazi chiếm 2,2% dân số Hoa Kỳ, nhưng đại diện cho 30% giảng viên của các trường đại học ưu tú, 21% sinh viên của trường đại học Ivy League, và 25% trong số những người đoạt giải Turing. Thêm vào đó, Người Do Thái đã chiếm 50% trong số 200 trí thức gia hàng đầu ... 40% đối tác trong các công ty luật hàng đầu ở Nữu Ước và Hoa Thịnh Đốn ... 59% đạo diễn, nhà văn và nhà sản xuất năm mươi bộ phim có doanh thu cao nhất ...

Quốc gia Israel: Vào năm 1922, vùng đất đầm lầy và đầy sa mạc này có dân số nghèo nàn là 752.000 người. Ngày nay thì có 7.746.000 cư dân, với một dân số lớn là người do thái Ashkenazi ( 3 triệu người, và 60% lực lượng lao động ) đã nâng cấp đất nước Israel thành một quốc gia công nghệ cao với thu nhập bình quân đầu người cao nhất trong khu vực. Quốc gia Israel đứng ở vị trí thứ nhất trên thế giới về bằng tốt nghiệp, đứng thứ nhất trong các viện bảo tàng, đứng thứ nhất về máy vi tính tại gia, và đứng đầu về xuất bản các bài báo khoa học.

Cá nhân tôi thấy thì số liệu thống kê của những giải Nobel là thú vị nhất. Hãy xem xét điều này: nếu tất cả mọi người trên hành tinh này là người Do Thái Ashkenazi, liệu kết quả có phải là số người đoạt giải Nobel tăng gấp 117 lần, và với 117 lần nhiều thành tựu ngoạn mục, mỗi năm? INSTANT SINGULARITY! Mà không cần có bất kỳ sự trợ giúp nào của trí thông minh nhân tạo AI ...

Thành tựu của người do thái Sephardi được thể hiện trong nhiều thể loại nêu trên, đặc biệt là trong các số liệu thống kê của Giải Nobel) Khi bài viết này được xuất bản lần đầu - trong một phiên bản ngắn hơn, vào ngày 7 tháng 8 năm 2011 bởi Institute for Ethics in Emerging Technology (ieet.org) Những người Do Thái Sephardi đã bày tỏ một số lo ngại rằng họ đã bị bỏ qua trong bài luận văn này. Tôi muốn thừa nhận sự đóng góp to lớn của những người Do Thái Sephardim với danh sách những người nổi bật từ dòng dõi của họ:

Elias Canetti (Giải Nobel Văn Học, 1981), Tobias Michael Carel Asser (Giải Nobel Hòa Bình, 1911), Rene Cassin (Giải Nobel Hòa Bình, 1968), Franco Modigliani (Giải Nobel Kinh Tế, 1985), Francois Jacob (Giải Nobel Y Khoa/ Sinh Lý Học, 1965), Salvador Luria (Giải Nobel Y Tế/ Sinh Lý Học, 1969), Baruj Benacerraf (Giải Nobel Y Học/ Sinh Lý Học, 1980), Rita Levi-Montalcini (Giải Nobel Medicine/Physiology, 1986), Emilio Segre (Giải Nobel Vật Lý, 1959), Claude Cohen-Tannoudj (Giải Nobel Vật Lý, 1997), cộng với nhà triết học Jacques Derrida, nhà kinh tế / từ thiện gia Bernard Baruch, họa sĩ Amedeo Modigliani, và Benjamin Disraeli là Thủ tướng Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland.

Trong kỷ nguyên thời Trung Cổ, những thành tựu của người do thái Sephardic cũng khá là đáng kể. Trong phần Giới thiệu về Lịch sử Khoa học của George Sarton, tác giả ghi nhận rằng 95 trên tổng số 626 nhà khoa học trên thế giới từ năm 1150-1300 là những người Do Thái Sephardi chiếm 15% vượt xa tỷ lệ dân số của họ.

Tuy nhiên, khi chỉ số thông minh IQ của người do thái Sephardi được ghi nhận, tổng số này không cao hơn mức trung bình so với người Bắc Âu và chắc chắn không cao như người do thái Ashkenazi.

Chúng ta hãy tiến hành. Với những thông tin thực tế tôi đã trình bày ra, chỉ có độc giả táo bạo nhất mới có thể chống lại tuyên bố của tôi rằng người Do Thái Ashkenazi, trung bình, thì thông minh một cách dị thường. Tôi không khẳng định sự đặc biệt của người do thái Ashkenazi bởi vì tôi là người theo Chủ nghĩa chuộng Do Thái, hoặc tôi là người theo Chủ nghĩa phục quốc Do Thái, hoặc tui là người ủng hộ Israel. Tui chỉ ra điều đó bởi vì điều ấy là sự thật không thể chối cãi.

Điều đó nói rằng, câu hỏi mà bài luận của tôi tìm cách làm sáng tỏ là ... Tại sao? Vì sao chỉ số thông minh IQ của người Do Thái Ashkenazi lại cao như vậy? Phải chăng nguyên nhân là do yếu tố gien di truyền, môi trường, văn hoá, giáo dục hay là sự kết hợp độc đáo của nhiều yếu tố?

Trong bài báo ban đầu của tôi về bài tiểu luận này, tôi đã cung cấp tám lý do cho chỉ số thông minh IQ cao của người do thái Ashkenazi. Nhưng sau đó, tôi đã nhận được một loạt các đề xuất email ( của nhiều giáo sư ) cung cấp cho tôi thêm thông tin bổ sung. Hai mươi lý thuyết được liệt kê dưới đây trong bài luận mở rộng này, và tôi đã cố gắng đưa ra nguồn tín dụng mà họ xứng đáng, mặc dù - trong một số trường hợp - tôi không có tên thực tế, chỉ là những người nói chuyện chat chit trên mạng Internet. Đây là danh sách mới của tôi - nhiều thứ liên quan đến nhau - được trình bày theo thứ tự thời gian gần:

1, Thuyết Ưu Sinh Babylon về người Do Thái

2, Dân Tộc của Cuốn Sách Khó

3, Vệ sinh sạch sẽ và chế độ ăn kiêng của người Do Thái

4, Trước Công Nguyên thì người do thái đã đề cao Giáo Dục

5, Trường Học Bắt Buộc cho Nam giới người Do Thái

6, Sự Đô Thị Hóa của người Do Thái

7, Tư tưởng biện chứng và tư duy hợp lý của người Do Thái

8, Người Truyền Giống là những Giáo Sĩ Thông Minh

9, Người Do Thái cưới hỏi kết hôn và sinh đẻ cho những Bộ Não

10, Ngôn ngữ của Con Buôn người Do Thái

11, Hoàn cảnh đưa đẩy bắt buộc người do thái phải Thông Minh để tồn tại

12, Người do thái được trang bị tận răng để tồn tại

13, Những Thiên Tài Bệnh Hoạn người Do Thái

14, Tư duy Tích Cực của người Do Thái

15, Chơi cờ Vua giúp người Do Thái Thông Minh hơn

16, Trí óc giai điệu âm nhạc của người Do Thái

17, Nền tảng gia đình Do Thái là sự hỗ trợ thoải mái với kỳ vọng cao

18, Các Đàn Ông người Do Thái Cùi Bắp thì Đi Về Đâu ?

19, Những giáo sĩ Do Thái Đồng Cảm

20, Nỗi Sợ Hãi của người do thái về Chủ nghĩa bài Do Thái ?


Hai mươi lời giải thích cho chỉ số thông minh IQ cao của người do thái Ashkenazi ! Còn quan điểm của tôi ? Liên quan đến fourscore ? Có lẽ tất cả điều đó đều chính xác và có giá trị để suy ngẫm. Tuy nhiên, điều mà tui thấy hấp dẫn nhất là những yếu tố môi trường mà có thể tiếp cận được với toàn thể nhân loại.

Tôi tự hỏi: nếu mọi người trên thế giới thực sự muốn có những thành tựu trí tuệ cấp cao, tại sao chúng ta không chơi cờ Vua với lũ trẻ vào ban đêm, thay vì cho con cái chung ta chơi game điện tử bạo lực ? Tại sao chúng ta không nghe các tác phẩm âm nhạc cổ điển vào cuối tuần, thay vì khuyến khích con cái nhận thêm những chấn động trên sân cỏ bóng đá ? Phải chăng "chế độ ăn kiêng" thực sự là một ý tưởng tuyệt vời, trong khi đó thì nền văn hóa Mỹ với 33,5% người lớn bị béo phì ? Tại sao chúng ta không cho con cái đi học tại những trường học xuất sắc, và lôi kéo dụ dỗ con cái học ngữ pháp ngôn ngữ nước ngoài, và thuyết phục con cái chúng ta tin tưởng vào chính bản thân nó và mở rộng tài năng khả năng của chúng nó, thay vì bắt buộc con cái chúng ta phải chịu đựng những năm tháng dài dòng của nền giáo dục tầm thường xoàng xĩnh và mong đợi không có lợi lộc gì mang lại nhưng vẫn giống như cũ?

Nếu toàn thể nhân loại đã áp dụng các đặc tính có sẵn tốt nhất từ những nền văn hoá thành công như văn hóa Do Thái Ashkenazi của người do thái Ashkenazi, liệu chúng ta, như một toàn thể, là vô cùng lợi ích ? Chúng ta sẽ học nhanh hơn, am hiểu sâu sắc hơn và tạo ra những kỳ quan to lớn hơn ? Liệu chúng ta sẽ trở thành những người đạt được quá nhiều thành tựu thành tích - thay vì những người kém cỏi under-achievers ?

Nếu chúng ta thúc đẩy các hành vi tăng cao chỉ số thông minh IQ cho con người ở khắp mọi nơi trên thế giới, trên toàn cầu, tất cả chúng ta sẽ trở nên ... được cải thiện nâng cấp ? Trở thành những con người giỏi giang hơn ?


Saturday, June 12, 2021

Dân Tộc của Cuốn Sách Khó

Dân Tộc của Cuốn Sách Khó: Kinh Thư Torah ( ngũ kinh đầu tiên của Kinh Thánh Do Thái ) và Kinh Thư Talmud ( ghi chép những cuộn tranh luận của các ông Rabbi ) là những thứ phức tạp và tinh tế về trí tuệ. Tín đồ thực hành của người do thái được yêu cầu phải học và nghiên cứu các kiến thức đồ sộ, ghi nhớ chính xác các lề luật. Nội dung chuyên đề của những đoạn văn kinh kệ thì không đơn giản và không theo nghĩa đen, ngược lại thì kinh sách của người do thái được thiết kế cho sự lãnh hội của nhiều yếu tố, trừu tượng, các đẳng cấp của phép ẩn dụ. Niềm tin mù quáng và lòng sùng đạo được khuyến khích bởi các tín ngưỡng khác, thì không có lợi cho Do Thái giáo. Thay vào đó, sự tôn thờ trong tôn giáo độc thần cổ đại này đòi hỏi trình độ học vấn cao bởi vì nhu cầu đòi hỏi kiến thức uyên thâm của những văn bản, với truyền thống bảo tồn và duy trì rằng, để hiểu được Kinh Kệ Talmud thì cần phải học bảy giờ trong một ngày trong suốt bảy năm. Charles Murray cho biết rằng, không có bất cứ tôn giáo nào mà đòi hỏi quá nhiều đối với toàn bộ tín đồ của tôn giáo đó, với các phân tích tiếp theo cho biết rằng, Đạo do thái giáo đã tiến hóa theo một con đường mà có nghĩa là để trở thành một người Do Thái giỏi thì một người đàn ông phải thông minh.

nguoi do thai yêu tổng thống Mỹ Đỗ Nam Trung

Saturday, October 7, 2017

Võ Lâm Trung Đông

Võ Lâm Trung Đông là chỉ đến những môn phái võ thuật có nguồn gốc từ xứ sở Trung Đông hay vùng Cận Đông.

Vùng Cận Đông cổ đại là nơi xuất hiện rất sớm nhiều quốc gia có nền văn minh nổi tiếng như Lưỡng Hà, Babylon, Assyria, Phoenicia, Ả Rập, Ai Cập cổ đại, Ba Tư cổ xưa, các vùng Tiểu Á, Ba Lạc Đĩnh, Thổ Nhĩ Kỳ. Vùng Trung Đông hay vùng Cận Đông là một trong những cái nôi của nền văn minh nhân loại. 

Võ thuật môn phái Ích Diên Quyền xuất xứ từ Võ Lâm Trung Đông và đây là môn võ tự vệ của người Do Thái. Nói chung thì Ích Diên Quyền là một môn võ thú vị của người Israel.

Tên của huấn luyện viên: Môi Sê Bazak hay Mai Sen Bazak
Các hoạt động của môn phái Ích diên quyền trong giới Võ Lâm Trung Đông

Nguồn gốc: Mai Sen Bazak là người sáng lập và cũng là trưởng môn của hệ thống chiến binh Do Thái ( Ích Diên Quyền ) thuần thục nhiều môn võ thuật khác nhau, có kinh nghiệm hơn 20 năm trong việc huấn luyện nhi đồng trẻ em thiếu nhi và người trưởng thành.

Chương trình huấn luyện: Các em học cách tập luyện kỹ năng tự vệ, tập thể dục, kỹ thuật chiến đấu tân tiến.

Dựa theo tinh thần Võ Đạo của Ích Diên Quyền thì Võ Đạo Ích Diên Quyền kết hợp những yếu tố giá trị của Kinh Thánh Torah bao gồm các quy tắc và phong tục tập quán Do Thái cùng với các kỹ thuật chiến đấu tiên tiến.
Đệ tử của môn phái Ích diên quyền đa số là người Do Thái hay người Israel trong thế giới Võ Lâm Trung Đông

Mục tiêu là mang lại cho các bé nhận thức ra khả năng của chính mình về những gì là tốt và những gì cần phải củng cố và sự quyết tâm về các mục tiêu tự đặt cho chính bản thân mình để tiếp tục tiến lên về phía trước. Những trải nghiệm thành công tạo ra cảm giác có khả năng và thành công! Và điều đó tạo ra sự tự tin và một hình ảnh tích cực.
Mục tiêu cuối năm: tăng sự tự tin và thể lực thể chất !

Khả năng tự bảo vệ chính bản thân mình, biểu hiện của các giá trị tôn giáo trong cuộc sống như tôn trọng, kiên nhẫn, khéo léo, cẩn thận, và vui vẻ.

Trung thành với con đường đức tin và tin cậy vào Thiên Chúa !

Chân dung của trưởng môn phái Ích Diên Quyền Môi Sê Bazak hay Mai Sen Bazak hiện đang sinh sống trong thế giới Võ Lâm Trung Đông

Ích Diên Quyền

Tên của huấn luyện viên: Môi Sê Bazak hay Mai Sen Bazak

Nguồn gốc: Môi Sê Bazak là người sáng lập và cũng là trưởng môn của hệ thống chiến binh Do Thái ( Ích Diên Quyền ) thuần thục nhiều môn võ thuật khác nhau, có kinh nghiệm hơn 20 năm trong việc huấn luyện nhi đồng trẻ em thiếu nhi và người trưởng thành.

Chương trình huấn luyện: Các em học cách tập luyện kỹ năng tự vệ, tập thể dục, kỹ thuật chiến đấu tân tiến.

Dựa theo tinh thần Võ Đạo của Ích Diên Quyền thì Võ Đạo Ích Diên Quyền kết hợp những yếu tố giá trị của Kinh Thánh Torah bao gồm các quy tắc và phong tục tập quán Do Thái cùng với các kỹ thuật chiến đấu tiên tiến.

Mục tiêu là mang lại cho các bé nhận thức ra khả năng của chính mình về những gì là tốt và những gì cần phải củng cố và sự quyết tâm về các mục tiêu tự đặt cho chính bản thân mình để tiếp tục tiến lên về phía trước. Những trải nghiệm thành công tạo ra cảm giác có khả năng và thành công! Và điều đó tạo ra sự tự tin và một hình ảnh tích cực.

Mục tiêu cuối năm: tăng sự tự tin và thể lực thể chất !

Khả năng tự bảo vệ chính bản thân mình, biểu hiện của các giá trị tôn giáo trong cuộc sống như tôn trọng, kiên nhẫn, khéo léo, cẩn thận, và vui vẻ.

Trung thành với con đường đức tin và tin cậy vào Thiên Chúa !





Thursday, October 5, 2017

RÂU


RÂU

Đàn ông Do Thái thường để râu, họ coi đó là một biểu tượng của vẻ đẹp nam tính. Một nhà văn thời trung cổ ghi nhận, “để trang điểm khuôn mặt của một người đàn ông là râu của ông ta” (Cyrus Adler, W. Max Muller, và Louis Ginzberg 2004). Râu được cho rằng đó là do Thiên Chúa ban cho đàn ông để phân biệt với phụ nữ. Do đó, cạo, nhổ, hoặc làm hư hỏng bộ râu là một sự sỉ nhục. Người cùi được cạo râu để phân biệt họ với những người khác vì căn bệnh đáng sợ của họ. Những người để tang cắt hoặc nhổ râu của họ như là một dấu hiệu của sự đau buồn, một thực tế bị các thầy tư tế chỉ trích. Nhưng đối với phần lớn, người Do Thái luôn xuất hiện với một bộ râu rậm, đầy đủ, bao gồm cả một bộ ria mép được cắt tỉa. Người thợ hớt tóc đã được sử dụng cho nghi thức cạo râu và thỉnh thoảng cắt tỉa. Các thầy tư tế bị cấm cắt tỉa các góc cạnh bộ râu của họ. Một trong những phương cách các chiến binh có thể hạ nhục kẻ thù hoặc làm cho gã trở nên suy nhược là cắt râu của gã.

Chúng ta có thể thu thập từ các bức phù điêu và các di tích khác của thế giới cổ đại rằng các quốc gia khác mà người Do Thái có mối quan hệ thường xuyên có những phong cách râu khác nhau. Khi Giuse ở Ai Cập, ông đã cạo râu (St 41,14), phù hợp với tục lệ người Ai Cập. Thật là lạ lẫm, phụ nữ Ai Cập đeo râu nhân tạo gắn vào cằm của họ vào những dịp lễ nhà nước, còn đàn ông thắt hàm râu thành những búi tóc nhỏ. Dân du mục cắt bớt hai bên bộ râu của họ, tạo ra một bộ râu nhọn. Người Babylon và Assyria có bộ râu quăn công phu và người Hy Lạp cạo râu. Trong suốt thời kỳ người Hy Lạp cai trị Palestine, phong tục này khiến nhiều người Do Thái từ bỏ bộ râu của mình, một dấu hiệu từ bỏ Do Thái giáo. Trong thời hiện đại, bộ râu đầy đủ đã trở thành dấu hiệu của người Do Thái Hasidic. Râu cũng là dấu chỉ của người đàn ông trưởng thành, có gia đình của một số giáo phái Kitô giáo.

Maria Ngô Liên chuyển ngữ (Lv 21, 5; 2 Sm 10, 4; Is15, 2; Gr 9, 26) Trích dịch tác phẩm “All Things in the Bible” của tác giả Nancy Tischler Đọc thêm: Adler, Cyrus, W. Max Muller, and Louis Ginzberg, “Beard”, jewishencyclopedia.com (accessed December 30, 2004).

Friday, September 22, 2017

Tại sao người Do thái Sáng Tạo Hơn người Châu Á người Á Đông ?

Người Do thái Sáng Tạo Hơn người Châu Á người Á Đông ?
Vì sao người Do thái Sáng Tạo Hơn người Á Đông

Vì sao một người Do thái có khả năng để đạt giải Nobel gấp 625 lần hơn một người Châu Á ? Điều đó không liên quan gì đến chỉ số thông minh IQ

Nghiên cứu của tôi cho thấy một người Do thái có khả năng để đạt giải Nobel gấp 625 lần hơn một người Á Đông ?

Vì sao vậy ?
Có liên quan gì đến chỉ số trí tuệ IQ không ?
Có liên quan gì đến cách người Do Thái dạy dỗ trong gia đình ?

Đánh lẽ ra thì các tiêu chuẩn học thuật cao cấp của nền văn hoá Á Đông sẽ tạo ra số lượng lớn hàng loạt các nhà phát minh sáng chế ?

Sự sáng tạo là quá trình tạo ra cái gì đó độc đáo và có ích, và sự thành công của quá trình sáng tạo là sự sáng chế phát minh. Giải Nobel là biểu tượng của thành tựu phát minh sáng chế.

Người Do Thái dân số ít hơn 0.2% tổng dân số nhân loại nhưng có khoảng 23% người chiến thắng giải Nobel. Bao gồm cả người thắng giải Nobel gần đây là Bob Dylan

Ngược lại, người Châu Á người Á Đông chiếm 23% tổng dân số thế giới nhưng chỉ có 4% người Đông Á chiến thắng giải Nobel.

Xét về quy mô dân số, tỷ lệ những người đoạt giải Nobel Kinh tế của người Do Thái là trên 115, nhưng tỷ lệ người Châu Á ít hơn 0,2. Theo thống kê, một người Do Thái có khả năng giành được giải Nobel hơn 625 lần so với người Châu Á.

Thực tế, người Do Thái tỏa sáng tốt trong tất cả các thành tựu sáng tạo.

Ví dụ: dân Do Thái đẻ ra một số nhạc sĩ người Do Thái vĩ đại nhất của thế kỷ 20: hơn 25% nhạc trưởng, 40% nghệ sĩ dương cầm, 50% nghệ sĩ trung hồ cầm cello và 65% nghệ sĩ vĩ cầm violin.
Người Do Thái có đôi mắt màu xanh biển
trẻ em người do thái thiếu nhi người do thái nhi đồng người do thái xếp hàng tàu xe lửa
Nhiều người cho rằng người Do Thái thành công trong lĩnh vực sáng tạo vì họ có chỉ số IQ cao hơn. Nghiên cứu của tôi không ủng hộ khẳng định này.

Ngoài nghiên cứu về lịch sử Do Thái, văn hoá Do Thái và giáo dục Do Thái, tôi đã phỏng vấn và theo dõi người Do Thái và sinh sống cùng gia đình Do Thái trong ba năm.

Tôi đã nghiên cứu các văn bản Do Thái có ảnh hưởng, viếng thăm các nhà thờ và tham dự các buổi lễ Do Thái và ngày lễ Do Thái.

Tôi quyết tâm khám phá các tính năng độc đáo có thể ảnh hưởng đến sự sáng tạo.

Khi tôi bắt đầu nghiên cứu, tôi không biết gì về văn hoá Do Thái.

Sau đó tôi đã học được rằng, nói chung, người Mỹ coi đó là điều cấm kỵ để đánh giá hoặc đưa ra nhận xét về người Do Thái.

Người Mỹ coi đó là điều cấm kỵ để đánh giá hoặc đưa ra nhận xét về người Do Thái

Nhưng vì tôi là người Hàn Quốc, tôi chưa bao giờ biết điều này.

Là một nhà nghiên cứu, sự không quen thuộc của tôi về điều cấm kỵ này đã giúp tôi duy trì tính khách quan của tôi.

Những phát hiện của tôi về sự khác biệt giữa việc dạy dỗ con cái con cháu của người Do Thái và người Á Châu đã gây ra nhiều tranh cãi, và trì hoãn việc xuất bản cuốn sách của tôi, The Creativity Challenge: How We Can Recapture American Innovation, một vài năm nữa.

Nhiều người cho rằng người Do Thái thành công trong lĩnh vực sáng tạo vì họ có chỉ số IQ cao. Tuy nhiên, nghiên cứu của tôi không ủng hộ khẳng định này. Tôi thấy rằng người Châu Á và người Do Thái có chỉ số IQ tương đương.

Người Châu Á và người Do Thái có chỉ số IQ tương đương

Tôi cũng nhận thấy rằng cả những người sáng tạo thành công lẫn những người ít sáng tạo đều được tạo ra bởi khí hậu của họ. Nghiên cứu sâu rộng của tôi đã kết hợp lại thành một khuôn khổ, mà tôi gọi là CATs.

CATs là ba bước thiết thực cho sự sáng tạo có thể đạt được trong bất kỳ nền văn hoá nào.
Đó là: tu luyện Sáng tạo Khí hậu (bước 1); nuôi dưỡng thái độ sáng tạo (bước 2); và phát triển kỹ năng tư duy sáng tạo (bước 3).

Đáng ngạc nhiên, phần quan trọng nhất của một quá trình sáng tạo là khí hậu. Các khí hậu của các cá nhân bao gồm văn hoá, điều kiện vật lý và tâm lý, mối quan hệ giữa các cá nhân, quá trình phát triển và những thành kiến ​​đang có. Tất cả các khía cạnh của khí hậu ảnh hưởng sâu sắc đến cách mọi người suy nghĩ và có tiềm năng khuyến khích hoặc làm nản lòng hành vi sáng tạo. May mắn, khí hậu là phần mà chúng ta có thể kiểm soát nhiều nhất.

Trong khuôn khổ CATs, ưu tiên nuôi dạy con cái của người Do Thái là rất hiệu quả trong việc phát triển khí hậu sáng tạo nuôi dưỡng thái độ sáng tạo và kỹ năng tư duy của trẻ.

Người Do Thái nuôi dưỡng khí hậu sáng tạo bằng cách đặt ra những kỳ vọng cao và cung cấp những thách thức cho con cái của họ bao gồm đưa ra nhận xét thẳng thắn với sự rõ ràng và cụ thể.
Để đối phó với các mối đe dọa khủng khiếp mà người Do Thái phải đối mặt, Người Do Thái đã trở nên kiên cường và thể hiện niềm tin rằng "Cái gì không giết chết bạn sẽ khiến bạn mạnh mẽ hơn.

Người Do Thái phát triển thái độ sáng tạo của trẻ như độc lập, tự tin (sự tự tin thực sự là biết được thế mạnh cụ thể của chính bản thân họ), khả năng phục hồi và chấp nhận rủi ro mạo hiểm chơi liều.

Hơn nữa, thay vì tập trung vào bi kịch, người Do Thái đã biến nó thành sự ủng hộ rộng rãi cho công lý xã hội. Thái độ này củng cố tư duy lớn qua lòng nhân ái.

Cha mẹ người Do Thái có xu hướng cung cấp cho trẻ em Do Thái một mô hình để tìm hiểu và đặt câu hỏi để mở rộng sự tò mò hiếu kỳ của trẻ em người Do Thái.
Cha mẹ Do Thái và giáo viên người Do Thái nuôi dưỡng thái độ sáng tạo của trẻ như thái độ cởi mở, tính cộng đồng và sự thông minh, bằng cách cung cấp cho họ nhiều nguồn lực và kinh nghiệm.

Thật không may trong suốt lịch sử, người Do Thái đã buộc phải trốn khỏi nhà cửa và đất nước. Tuy nhiên, điều này cho phép họ tiếp xúc với đa dạng các chủng người, văn hoá, khu vực, ngôn ngữ, tôn giáo, và nghệ thuật khác nhau.

Những kinh nghiệm này đã mở ra những suy nghĩ của người Do Thái với những quan điểm, ý tưởng và cách sống khác, tăng khả năng tư duy sáng tạo.
Một chàng trai trẻ tuổi người do thái mặc quần áo màu đen và áo sơ mi trắng

Trong khi nuôi dưỡng trẻ thơ Do Thái những giá trị bản sắc Do Thái, Phụ huynh Do thái và thầy giáo Do thái nuôi dưỡng bản sắc văn hoá Do Thái bằng cách dạy cho họ về những điểm giống nhau và khác biệt giữa các nền văn hoá trong khi củng cố mong muốn duy trì bản sắc truyền thống Do Thái của họ.

Các cộng đồng người Do Thái đã phát triển các lớp học, hệ thống trường học, và các chuyến đi ngắn hạn và dài hạn đến quê hương của họ ở Israel. Nhận dạng văn hoá cho phép tạo ra nhiều quan điểm, những suy nghĩ phức tạp, và quan điểm của một người ngoài cuộc, giúp nâng cao kỹ năng tư duy sáng tạo.
Một chàng trai người Do Thái người Tóc Đỏ

Hơn nữa, nghiên cứu cho thấy rằng người Do Thái có khuynh hướng kết hôn muộn hơn so với những người không phải là người Do Thái.

Người Do Thái có nhiều tài chính và tình cảm hơn khi có con cái, giúp họ cung cấp cho con của họ các nguồn lực đa dạng.

Người Do Thái cũng dạy con cái của họ sớm hơn về cách tìm tòi và sử dụng các nguồn như sách vở, nghệ thuật, thư viện, viện bảo tàng và nguồn nhân lực, qua đó nuôi dưỡng sự tháo vát của trẻ em Do Thái.

Cha mẹ người Do Thái / thầy giáo người Do thái nuôi dưỡng thái độ sáng tạo của trẻ như sự tò mò hiếu kỳ, tính lạc quan và ý tưởng lớn bằng cách cung cấp cho thiếu nhi Do Thái nguồn cảm hứng và động viên. Họ có xu hướng cung cấp cho nhi đồng Do Thái một mô hình để tìm hiểu và đặt câu hỏi mở rộng sự tò mò của trẻ em người Do Thái.

Người Do Thái nuôi dưỡng tình yêu của thiếu nhi người Do Thái để đọc sớm và được biết đến như là "Dân tộc của Sách". Hơn nữa, người Do Thái nhấn mạnh Tikkun olam - sửa chữa thế giới - dạy cho con cái của họ để lại cho thế giới một nơi tốt hơn là tìm kiềm điều đó, tạo ra sự rộng lượng như một qui tắc.

Nghiên cứu cho thấy các gia đình Do Thái làm từ thiện nhiều hơn và cho một số tiền lớn hơn các gia đình tôn giáo khác hoặc các gia đình không tôn giáo - bất kể mức thu nhập hay mức độ giàu có của họ.
Nghiên cứu cho thấy các gia đình người Do Thái từ thiện nhìu hơn và cho một số tiền lớn hơn các gia đình đạo khác hoặc các gia đình vô tôn giáo - bất kể mức thu nhập hay mức độ giàu có của họ.

Người Do Thái chiếm ít hơn 2% dân số Mỹ, nhưng họ chiếm 30% số người hiến tủy và hiến các bộ phận cơ thể để làm từ thiện nhiều nhất. Điều này củng cố sự lạc quan cho con trẻ Do Thái, tư duy hình ảnh lớn và lòng vị tha, các yếu tố chủ chốt cho sự đổi mới và sáng tạo.

Cha mẹ dân Do Thái và thầy giáo dân Do Thái có xu hướng nuôi dưỡng cảm xúc, tính tự chủ, vô kỷ luật và tính thích thách thức của trẻ em Do Thái bằng cách cung cấp cho con nít Do Thái sự tự do để được một mình và độc nhất.
Ngâm cứu cho thấy cha mẹ dân tộc Do Thái và thầy giáo dân tộc Do Thái ủng hộ sự tự biểu hiện của trẻ; sự tò mò hiếu kỳ, sở thích và quan tâm của thiếu nhi Do Thái về cách thức và lý do tại sao mọi thứ xảy ra; và lập luận, chứ không phải là sự sạch sẽ, trật tự, quy tắc và cách cư xử tốt.

Cùng với bản sắc văn hoá Do Thái đã nuôi dưỡng sự vô kỷ luật của con cái họ, Người Do Thái đã tự xác định mình là những người kẻ ngoài cuộc không giống ai, những người ủng hộ những người lười biếng người thua cuộc người thất bại và những người đã từng là nạn nhân và đang là nạn nhân.

Nguyên lý Nho Giáo Khổng Giáo Khổng Tử




Trước khi tôi nghiên cứu các phương pháp giảng dạy và dạy dỗ của người Do Thái, tôi đã nghiên cứu Khổng Học Khổng Giáo Khổng Tử Nho Giáo, vốn là chủ đề của luận văn tiến sĩ của tôi.

Các nguyên lý và giá trị Khổng giáo Nho Giáo dựa trên triết lý và ý tưởng của Khổng Tử, tiếp tục là nền tảng đạo đức cho hầu hết các dân tộc người châu Á người Á Đông, người mà tôi gọi là Khổng học trong bài báo này.

Việc dạy dỗ và giáo huấn của Nho giáo theo bốn nguyên tắc cụ thể:

- Nguyên tắc thứ nhất là các mối quan hệ có tính phân cấp, ở đó tuổi tác là một dấu hiệu của trí tuệ và thẩm quyền. Người cao tuổi có quyền thực hiện kỷ luật và kiểm soát những người trẻ hơn để lắng nghe họ.

Vụ tai nạn máy bay phản lực thảm khốc Đại Hàn Dân Quốc năm 1997 đã cho thấy tác động tiêu cực của hệ thống phân cấp này, trong đó một kỹ sư trẻ tuổi không thách thức quyền lực của thuyền trưởng già hơn, dẫn đến 228 người thiệt mạng.


Cha mẹ Khổng giáo và các nhà giáo dục Khổng giáo dạy con mình sử dụng quyền kiểm soát và quyền lực. Họ nuôi dưỡng sự phụ thuộc và vâng phục trong con cái của họ và sự chấp nhận vững chắc của thông tin họ được dạy.


Điều này cản trở sự độc lập, tự chủ, tư duy phê phán, sự vô kỷ luật và tính thách thức của trẻ em, điều này là cần thiết cho kỹ năng tư duy sáng tạo. Nó cũng giới hạn các kỹ năng tư duy sáng tạo bằng cách ngăn ngừa thụ phấn chéo, đó là chia sẻ ý tưởng và / hoặc làm việc với các chuyên gia khác trong một mối quan hệ bình đẳng.

- Nguyên tắc thứ hai là sự siêng năng chăm chỉ và thành công trong học tập. Cha mẹ và các nhà giáo dục Nho giáo dạy rằng thành công trong học tập là quan trọng không chỉ đối với trẻ em mà còn cho danh dự gia đình rộng lớn và thậm chí là cả tổ tiên.


Nguyên tắc này đã gây ra sự cạnh tranh khốc liệt và không lành mạnh ở Trung Quốc, dẫn đến cái gọi là "địa ngục thi cử Châu Á hay địa ngục thi cử Á Đông từ những năm 1970, dẫn đến tỷ lệ tự tử cao ở các sinh viên Châu Á sinh viên Á Đông.

Cha mẹ Khổng học và nhà giáo dục Khổng học mang giá trị cao nhất đối với công việc học tập, đó là thực hành chuyên sâu, bài tập về nhà nhiều, và kết quả; họ không đánh giá sự vui chơi của trẻ em, tính mơ mộng, hoặc sự tò mò hiếu kỳ, sở thích và sự hứng thú của trẻ em. Điều này cản trở sự phát triển của trẻ em về tính tò mò hiếu kỳ, tự nhiên và sáng tạo.


Nhìn chung, việc nuôi dạy con cái kiểu Nho giáo Khổng Giáo Khổng Tử Khổng Học dẫn đến thiếu sự tự thể hiện bản thận và tính sáng tạo.

- Nguyên tắc thứ ba là lòng hiếu thảo (cha mẹ yêu cầu không cần đặt câu hỏi) và lòng trung thành. Cha mẹ Khổng học rất quan tâm và hy sinh rất nhiều cho thành công học vấn của con mình. Đổi lại, con cái của họ tìm cách trở nên giàu có và đạt được vị thế xã hội cao để họ có thể trả nợ cho cha mẹ của mình cho những hy sinh mà cha mẹ đã làm cho bản thân họ, mà không có chỗ cho hoạt động từ thiện.

Là sự mở rộng lòng đạo hiếu, lòng trung thành trong công việc đã góp phần vào sự thành công về kinh tế của các quốc gia châu Á quốc gia Á Đông trong những năm 1980.

Tuy nhiên, điều đó dẫn các nhà Khổng học chấp nhận quyền lực không câu hỏi và từ chối ý tưởng khác biệt với cả nhóm vì lòng trung thành với nhóm nội bộ của họ.

Cha mẹ Nho giáo dạy con cái mình phải làm việc chăm chỉ hơn và phải giỏi hơn những người bạn cùng trang lứa. Họ công khai so sánh con cái của họ với con cái của người khác, điều này giúp thúc đẩy sự phân chia tạo ra đội nhóm của những kẻ thất bại và những người thành công.


Thái độ này làm giảm đi sự suy nghĩ, tư duy lớn của con cái, sự từ bi, và sự thụ phấn chéo, là những yếu tố chính cho kỹ năng tư duy sáng tạo.

Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng tính cạnh tranh cực đoan đã dẫn đến sự phổ biến của sinh viên châu Á về đạo văn và thiếu ý tưởng ban đầu. Họ càng cảm thấy nghĩa vụ hiếu học hơn, họ càng sẵn sàng lừa dối hoặc đạt được mục tiêu bằng bất cứ cách nào cần thiết.

- Nguyên tắc cuối cùng là hài hòa và phù hợp. Cha mẹ và nhà giáo dục Nho giáo dạy con cái mình phải khiêm tốn và không hành động khác biệt với những người khác.

Điều này có thể làm giảm sự tự tin và cảm giác cá nhân và sự độc đáo của trẻ em.

Họ nhấn mạnh quá mức các mối quan hệ hài hòa và tránh xung đột, tránh sự bất đồng và né tránh mâu thuẫn.


Trẻ em Á châu trẻ em Á Đông rất quan tâm đến quan điểm của người khác. Chính thức và nghiêm túc được khuyến khích, trong khi vui tươi và hài hước thì không. Vì vậy, sự vui tươi, vô kỷ luật, và tính thách thức của họ bị chà đạp, mà điều này lại vốn cần thiết để phát triển kỹ năng tư duy sáng tạo.

Mặc dù có một số điểm giống nhau giữa việc nuôi dạy trẻ em của người Do Thái và dạy dỗ con cái của Nho giáo Khổng giáo Khổng Tử Khổng học,
nói chung, việc dạy dỗ con cái của người Do Thái dẫn đến sự đổi mới, trong khi đó sự nuôi dạy con cái của Nho giáo dẫn đến thiếu sự tự thể hiện bản thân và tính sáng tạo.

Kết quả là trẻ em châu Á trẻ em Đông Á thường giống như người "bonsais". Bonsai là một cây có hình dáng trang trí được cắt tỉa và nắn hình dạng bằng dây để nó không thể phát triển tất cả tiềm năng của nó.

Mọi người đều sinh ra tò mò hiếu kỳ và sáng tạo, nhưng khí hậu hoặc môi trường nuôi dưỡng đè nén sự sáng tạo của họ. Khám phá cách mọi người có thể tu luyện khí hậu sáng tạo, nuôi dưỡng thái độ sáng tạo và áp dụng các kỹ năng tư duy sáng tạo để đạt được sự đổi mới trong The Creativity Challenge: How We Can Recapture American Innovation

Bài báo này trích dẫn từ The Creativity Challenge: How We Can Recapture American Innovation, đó là tổng hợp các kết quả nghiên cứu. Tất cả các nguồn được tìm thấy trong cuốn sách.

Tiến sĩ Kim là giáo sư đạt được giải thưởng đổi mới và sáng tạo của trường đại học William & Mary. Nghiên cứu của cô "Khủng hoảng sáng tạo" là chủ đề của một câu chuyện trên bìa báo Newsweek 2010. Nhiều tạp chí tin tức đã tìm kiếm chuyên môn của bà bao gồm Washington Post, Tạp chí Phố Wall, Báo cáo Thế giới & Báo chí Hoa Kỳ, NPR và các trang khác. Bài viết gây tranh cãi này là trích đoạn từ The Creativity Challenge: How We Can Recapture American Innovation đó là tổng hợp các kết quả nghiên cứu. Tất cả nguồn đều được tìm thấy trong cuốn sách của cô.

Dịch từ aish.com/jw/s/Are-Jews-More-Creative-than-Asians.html

Thursday, September 21, 2017

Người Do thái Sáng Tạo Hơn người Châu Á người Á Đông ?

Người Do thái Sáng Tạo Hơn người Châu Á người Á Đông ?

Vì sao người Do thái Sáng Tạo Hơn người Á Đông

Người Do thái Sáng Tạo Hơn người Châu Á người Á Đông ?

Vì sao người Do thái Sáng Tạo Hơn người Á Đông

Vì sao một người Do thái có khả năng để đạt giải Nobel gấp 625 lần hơn một người Châu Á ? Điều đó không liên quan gì đến chỉ số thông minh IQ

Nghiên cứu của tôi cho thấy một người Do thái có khả năng để đạt giải Nobel gấp 625 lần hơn một người Á Đông ?

Vì sao vậy ?
Có liên quan gì đến chỉ số trí tuệ IQ không ?
Có liên quan gì đến cách người Do Thái dạy dỗ trong gia đình ?

Đánh lẽ ra thì các tiêu chuẩn học thuật cao cấp của nền văn hoá Á Đông sẽ tạo ra số lượng lớn hàng loạt các nhà phát minh sáng chế ?

Sự sáng tạo là quá trình tạo ra cái gì đó độc đáo và có ích, và sự thành công của quá trình sáng tạo là sự sáng chế phát minh. Giải Nobel là biểu tượng của thành tựu phát minh sáng chế.

Người Do Thái dân số ít hơn 0.2% tổng dân số nhân loại nhưng có khoảng 23% người chiến thắng giải Nobel. Bao gồm cả người thắng giải Nobel gần đây là Bob Dylan

Ngược lại, người Châu Á người Á Đông chiếm 23% tổng dân số thế giới nhưng chỉ có 4% người Đông Á chiến thắng giải Nobel.

Xét về quy mô dân số, tỷ lệ những người đoạt giải Nobel Kinh tế của người Do Thái là trên 115, nhưng tỷ lệ người Châu Á ít hơn 0,2. Theo thống kê, một người Do Thái có khả năng giành được giải Nobel hơn 625 lần so với người Châu Á.

Thực tế, người Do Thái tỏa sáng tốt trong tất cả các thành tựu sáng tạo.
Ví dụ: dân Do Thái đẻ ra một số nhạc sĩ người Do Thái vĩ đại nhất của thế kỷ 20: hơn 25% nhạc trưởng, 40% nghệ sĩ dương cầm, 50% nghệ sĩ trung hồ cầm cello và 65% nghệ sĩ vĩ cầm violin.

Nhiều người cho rằng người Do Thái thành công trong lĩnh vực sáng tạo vì họ có chỉ số IQ cao hơn. Nghiên cứu của tôi không ủng hộ khẳng định này.

Ngoài nghiên cứu về lịch sử Do Thái, văn hoá Do Thái và giáo dục Do Thái, tôi đã phỏng vấn và theo dõi người Do Thái và sinh sống cùng gia đình Do Thái trong ba năm.

Tôi đã nghiên cứu các văn bản Do Thái có ảnh hưởng, viếng thăm các nhà thờ và tham dự các buổi lễ Do Thái và ngày lễ Do Thái.

Tôi quyết tâm khám phá các tính năng độc đáo có thể ảnh hưởng đến sự sáng tạo.

Khi tôi bắt đầu nghiên cứu, tôi không biết gì về văn hoá Do Thái.

Sau đó tôi đã học được rằng, nói chung, người Mỹ coi đó là điều cấm kỵ để đánh giá hoặc đưa ra nhận xét về người Do Thái.

Người Mỹ coi đó là điều cấm kỵ để đánh giá hoặc đưa ra nhận xét về người Do Thái

Nhưng vì tôi là người Hàn Quốc, tôi chưa bao giờ biết điều này.

Là một nhà nghiên cứu, sự không quen thuộc của tôi về điều cấm kỵ này đã giúp tôi duy trì tính khách quan của tôi.

Những phát hiện của tôi về sự khác biệt giữa việc dạy dỗ con cái con cháu của người Do Thái và người Á Châu đã gây ra nhiều tranh cãi, và trì hoãn việc xuất bản cuốn sách của tôi, The Creativity Challenge: How We Can Recapture American Innovation, một vài năm nữa.

Nhiều người cho rằng người Do Thái thành công trong lĩnh vực sáng tạo vì họ có chỉ số IQ cao. Tuy nhiên, nghiên cứu của tôi không ủng hộ khẳng định này. Tôi thấy rằng người Châu Á và người Do Thái có chỉ số IQ tương đương.

Người Châu Á và người Do Thái có chỉ số IQ tương đương

Tôi cũng nhận thấy rằng cả những người sáng tạo thành công lẫn những người ít sáng tạo đều được tạo ra bởi khí hậu của họ. Nghiên cứu sâu rộng của tôi đã kết hợp lại thành một khuôn khổ, mà tôi gọi là CATs.

CATs là ba bước thiết thực cho sự sáng tạo có thể đạt được trong bất kỳ nền văn hoá nào.
Đó là: tu luyện Sáng tạo Khí hậu (bước 1); nuôi dưỡng thái độ sáng tạo (bước 2); và phát triển kỹ năng tư duy sáng tạo (bước 3).

Đáng ngạc nhiên, phần quan trọng nhất của một quá trình sáng tạo là khí hậu. Các khí hậu của các cá nhân bao gồm văn hoá, điều kiện vật lý và tâm lý, mối quan hệ giữa các cá nhân, quá trình phát triển và những thành kiến ​​đang có. Tất cả các khía cạnh của khí hậu ảnh hưởng sâu sắc đến cách mọi người suy nghĩ và có tiềm năng khuyến khích hoặc làm nản lòng hành vi sáng tạo. May mắn, khí hậu là phần mà chúng ta có thể kiểm soát nhiều nhất.

Trong khuôn khổ CATs, ưu tiên nuôi dạy con cái của người Do Thái là rất hiệu quả trong việc phát triển khí hậu sáng tạo nuôi dưỡng thái độ sáng tạo và kỹ năng tư duy của trẻ.

Người Do Thái nuôi dưỡng khí hậu sáng tạo bằng cách đặt ra những kỳ vọng cao và cung cấp những thách thức cho con cái của họ bao gồm đưa ra nhận xét thẳng thắn với sự rõ ràng và cụ thể.

Để đối phó với các mối đe dọa khủng khiếp mà người Do Thái phải đối mặt, Người Do Thái đã trở nên kiên cường và thể hiện niềm tin rằng "Cái gì không giết chết bạn sẽ khiến bạn mạnh mẽ hơn.

Người Do Thái phát triển thái độ sáng tạo của trẻ như độc lập, tự tin (sự tự tin thực sự là biết được thế mạnh cụ thể của chính bản thân họ), khả năng phục hồi và chấp nhận rủi ro mạo hiểm chơi liều.

Hơn nữa, thay vì tập trung vào bi kịch, người Do Thái đã biến nó thành sự ủng hộ rộng rãi cho công lý xã hội. Thái độ này củng cố tư duy lớn qua lòng nhân ái.

Cha mẹ người Do Thái có xu hướng cung cấp cho trẻ em Do Thái một mô hình để tìm hiểu và đặt câu hỏi để mở rộng sự tò mò hiếu kỳ của trẻ em người Do Thái.

Cha mẹ Do Thái và giáo viên người Do Thái nuôi dưỡng thái độ sáng tạo của trẻ như thái độ cởi mở, tính cộng đồng và sự thông minh, bằng cách cung cấp cho họ nhiều nguồn lực và kinh nghiệm.

Thật không may trong suốt lịch sử, người Do Thái đã buộc phải trốn khỏi nhà cửa và đất nước. Tuy nhiên, điều này cho phép họ tiếp xúc với đa dạng các chủng người, văn hoá, khu vực, ngôn ngữ, tôn giáo, và nghệ thuật khác nhau.

Những kinh nghiệm này đã mở ra những suy nghĩ của người Do Thái với những quan điểm, ý tưởng và cách sống khác, tăng khả năng tư duy sáng tạo.

Trong khi nuôi dưỡng trẻ thơ Do Thái những giá trị bản sắc Do Thái, Phụ huynh Do thái và thầy giáo Do thái nuôi dưỡng bản sắc văn hoá Do Thái bằng cách dạy cho họ về những điểm giống nhau và khác biệt giữa các nền văn hoá trong khi củng cố mong muốn duy trì bản sắc truyền thống Do Thái của họ.

Các cộng đồng người Do Thái đã phát triển các lớp học, hệ thống trường học, và các chuyến đi ngắn hạn và dài hạn đến quê hương của họ ở Israel. Nhận dạng văn hoá cho phép tạo ra nhiều quan điểm, những suy nghĩ phức tạp, và quan điểm của một người ngoài cuộc, giúp nâng cao kỹ năng tư duy sáng tạo.

Hơn nữa, nghiên cứu cho thấy rằng người Do Thái có khuynh hướng kết hôn muộn hơn so với những người không phải là người Do Thái.

Người Do Thái có nhiều tài chính và tình cảm hơn khi có con cái, giúp họ cung cấp cho con của họ các nguồn lực đa dạng.

Người Do Thái cũng dạy con cái của họ sớm hơn về cách tìm tòi và sử dụng các nguồn như sách vở, nghệ thuật, thư viện, viện bảo tàng và nguồn nhân lực, qua đó nuôi dưỡng sự tháo vát của trẻ em Do Thái.

Cha mẹ người Do Thái / thầy giáo người Do thái nuôi dưỡng thái độ sáng tạo của trẻ như sự tò mò hiếu kỳ, tính lạc quan và ý tưởng lớn bằng cách cung cấp cho thiếu nhi Do Thái nguồn cảm hứng và động viên. Họ có xu hướng cung cấp cho nhi đồng Do Thái một mô hình để tìm hiểu và đặt câu hỏi mở rộng sự tò mò của trẻ em người Do Thái.

Người Do Thái nuôi dưỡng tình yêu của thiếu nhi người Do Thái để đọc sớm và được biết đến như là "Dân tộc của Sách". Hơn nữa, người Do Thái nhấn mạnh Tikkun olam - sửa chữa thế giới - dạy cho con cái của họ để lại cho thế giới một nơi tốt hơn là tìm kiềm điều đó, tạo ra sự rộng lượng như một qui tắc.

Nghiên cứu cho thấy các gia đình Do Thái làm từ thiện nhiều hơn và cho một số tiền lớn hơn các gia đình tôn giáo khác hoặc các gia đình không tôn giáo - bất kể mức thu nhập hay mức độ giàu có của họ.

Nghiên cứu cho thấy các gia đình người Do Thái từ thiện nhìu hơn và cho một số tiền lớn hơn các gia đình đạo khác hoặc các gia đình vô tôn giáo - bất kể mức thu nhập hay mức độ giàu có của họ.

Người Do Thái chiếm ít hơn 2% dân số Mỹ, nhưng họ chiếm 30% số người hiến tủy và hiến các bộ phận cơ thể để làm từ thiện nhiều nhất. Điều này củng cố sự lạc quan cho con trẻ Do Thái, tư duy hình ảnh lớn và lòng vị tha, các yếu tố chủ chốt cho sự đổi mới và sáng tạo.

Cha mẹ dân Do Thái và thầy giáo dân Do Thái có xu hướng nuôi dưỡng cảm xúc, tính tự chủ, vô kỷ luật và tính thích thách thức của trẻ em Do Thái bằng cách cung cấp cho con nít Do Thái sự tự do để được một mình và độc nhất.

Ngâm cứu cho thấy cha mẹ dân tộc Do Thái và thầy giáo dân tộc Do Thái ủng hộ sự tự biểu hiện của trẻ; sự tò mò hiếu kỳ, sở thích và quan tâm của thiếu nhi Do Thái về cách thức và lý do tại sao mọi thứ xảy ra; và lập luận, chứ không phải là sự sạch sẽ, trật tự, quy tắc và cách cư xử tốt.

Cùng với bản sắc văn hoá Do Thái đã nuôi dưỡng sự vô kỷ luật của con cái họ, Người Do Thái đã tự xác định mình là những người kẻ ngoài cuộc không giống ai, những người ủng hộ những người lười biếng người thua cuộc người thất bại và những người đã từng là nạn nhân và đang là nạn nhân.

Nguyên lý Nho Giáo Khổng Giáo Khổng Tử

Trước khi tôi nghiên cứu các phương pháp giảng dạy và dạy dỗ của người Do Thái, tôi đã nghiên cứu Khổng Học Khổng Giáo Khổng Tử Nho Giáo, vốn là chủ đề của luận văn tiến sĩ của tôi.
Các nguyên lý và giá trị Khổng giáo Nho Giáo dựa trên triết lý và ý tưởng của Khổng Tử, tiếp tục là nền tảng đạo đức cho hầu hết các dân tộc người châu Á người Á Đông, người mà tôi gọi là Khổng học trong bài báo này. Việc dạy dỗ và giáo huấn của Nho giáo theo bốn nguyên tắc cụ thể.

- Nguyên tắc thứ nhất là các mối quan hệ có tính phân cấp, ở đó tuổi tác là một dấu hiệu của trí tuệ và thẩm quyền. Người cao tuổi có quyền thực hiện kỷ luật và kiểm soát những người trẻ hơn để lắng nghe họ.

Vụ tai nạn máy bay phản lực thảm khốc Đại Hàn Dân Quốc năm 1997 đã cho thấy tác động tiêu cực của hệ thống phân cấp này, trong đó một kỹ sư trẻ tuổi không thách thức quyền lực của thuyền trưởng già hơn, dẫn đến 228 người thiệt mạng.

Cha mẹ Khổng giáo và các nhà giáo dục Khổng giáo dạy con mình sử dụng quyền kiểm soát và quyền lực. Họ nuôi dưỡng sự phụ thuộc và vâng phục trong con cái của họ và sự chấp nhận vững chắc của thông tin họ được dạy.

Điều này cản trở sự độc lập, tự chủ, tư duy phê phán, sự vô kỷ luật và tính thách thức của trẻ em, điều này là cần thiết cho kỹ năng tư duy sáng tạo. Nó cũng giới hạn các kỹ năng tư duy sáng tạo bằng cách ngăn ngừa thụ phấn chéo, đó là chia sẻ ý tưởng và / hoặc làm việc với các chuyên gia khác trong một mối quan hệ bình đẳng.

- Nguyên tắc thứ hai là sự siêng năng chăm chỉ và thành công trong học tập. Cha mẹ và các nhà giáo dục Nho giáo dạy rằng thành công trong học tập là quan trọng không chỉ đối với trẻ em mà còn cho danh dự gia đình rộng lớn và thậm chí là cả tổ tiên.

Nguyên tắc này đã gây ra sự cạnh tranh khốc liệt và không lành mạnh ở Trung Quốc, dẫn đến cái gọi là "địa ngục thi cử Châu Á hay địa ngục thi cử Á Đông từ những năm 1970, dẫn đến tỷ lệ tự tử cao ở các sinh viên Châu Á sinh viên Á Đông.

Cha mẹ Khổng học và nhà giáo dục Khổng học mang giá trị cao nhất đối với công việc học tập, đó là thực hành chuyên sâu, bài tập về nhà nhiều, và kết quả; họ không đánh giá sự vui chơi của trẻ em, tính mơ mộng, hoặc sự tò mò hiếu kỳ, sở thích và sự hứng thú của trẻ em. Điều này cản trở sự phát triển của trẻ em về tính tò mò hiếu kỳ, tự nhiên và sáng tạo.

Nhìn chung, việc nuôi dạy con cái kiểu Nho giáo Khổng Giáo Khổng Tử Khổng Học dẫn đến thiếu sự tự thể hiện bản thận và tính sáng tạo.

- Nguyên tắc thứ ba là lòng hiếu thảo (cha mẹ yêu cầu không cần đặt câu hỏi) và lòng trung thành. Cha mẹ Khổng học rất quan tâm và hy sinh rất nhiều cho thành công học vấn của con mình. Đổi lại, con cái của họ tìm cách trở nên giàu có và đạt được vị thế xã hội cao để họ có thể trả nợ cho cha mẹ của mình cho những hy sinh mà cha mẹ đã làm cho bản thân họ, mà không có chỗ cho hoạt động từ thiện.

Là sự mở rộng lòng đạo hiếu, lòng trung thành trong công việc đã góp phần vào sự thành công về kinh tế của các quốc gia châu Á quốc gia Á Đông trong những năm 1980.

Tuy nhiên, điều đó dẫn các nhà Khổng học chấp nhận quyền lực không câu hỏi và từ chối ý tưởng khác biệt với cả nhóm vì lòng trung thành với nhóm nội bộ của họ.

Cha mẹ Nho giáo dạy con cái mình phải làm việc chăm chỉ hơn và phải giỏi hơn những người bạn cùng trang lứa. Họ công khai so sánh con cái của họ với con cái của người khác, điều này giúp thúc đẩy sự phân chia tạo ra đội nhóm của những kẻ thất bại và những người thành công.

Thái độ này làm giảm đi sự suy nghĩ, tư duy lớn của con cái, sự từ bi, và sự thụ phấn chéo, là những yếu tố chính cho kỹ năng tư duy sáng tạo.

Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng tính cạnh tranh cực đoan đã dẫn đến sự phổ biến của sinh viên châu Á về đạo văn và thiếu ý tưởng ban đầu. Họ càng cảm thấy nghĩa vụ hiếu học hơn, họ càng sẵn sàng lừa dối hoặc đạt được mục tiêu bằng bất cứ cách nào cần thiết.

- Nguyên tắc cuối cùng là hài hòa và phù hợp. Cha mẹ và nhà giáo dục Nho giáo dạy con cái mình phải khiêm tốn và không hành động khác biệt với những người khác.

Điều này có thể làm giảm sự tự tin và cảm giác cá nhân và sự độc đáo của trẻ em.

Họ nhấn mạnh quá mức các mối quan hệ hài hòa và tránh xung đột, tránh sự bất đồng và né tránh mâu thuẫn.

Trẻ em Á châu trẻ em Á Đông rất quan tâm đến quan điểm của người khác. Chính thức và nghiêm túc được khuyến khích, trong khi vui tươi và hài hước thì không. Vì vậy, sự vui tươi, vô kỷ luật, và tính thách thức của họ bị chà đạp, mà điều này lại vốn cần thiết để phát triển kỹ năng tư duy sáng tạo.

Mặc dù có một số điểm giống nhau giữa việc nuôi dạy trẻ em của người Do Thái và dạy dỗ con cái của Nho giáo Khổng giáo Khổng Tử Khổng học,

nói chung, việc dạy dỗ con cái của người Do Thái dẫn đến sự đổi mới, trong khi đó sự nuôi dạy con cái của Nho giáo dẫn đến thiếu sự tự thể hiện bản thân và tính sáng tạo.

Kết quả là trẻ em châu Á trẻ em Đông Á thường giống như người "bonsais". Bonsai là một cây có hình dáng trang trí được cắt tỉa và nắn hình dạng bằng dây để nó không thể phát triển tất cả tiềm năng của nó.

Mọi người đều sinh ra tò mò hiếu kỳ và sáng tạo, nhưng khí hậu hoặc môi trường nuôi dưỡng đè nén sự sáng tạo của họ. Khám phá cách mọi người có thể tu luyện khí hậu sáng tạo, nuôi dưỡng thái độ sáng tạo và áp dụng các kỹ năng tư duy sáng tạo để đạt được sự đổi mới trong The Creativity Challenge: How We Can Recapture American Innovation

Bài báo này trích dẫn từ The Creativity Challenge: How We Can Recapture American Innovation, đó là tổng hợp các kết quả nghiên cứu. Tất cả các nguồn được tìm thấy trong cuốn sách.

Tiến sĩ Kim là giáo sư đạt được giải thưởng đổi mới và sáng tạo của trường đại học William & Mary. Nghiên cứu của cô "Khủng hoảng sáng tạo" là chủ đề của một câu chuyện trên bìa báo Newsweek 2010. Nhiều tạp chí tin tức đã tìm kiếm chuyên môn của bà bao gồm Washington Post, Tạp chí Phố Wall, Báo cáo Thế giới & Báo chí Hoa Kỳ, NPR và các trang khác. Bài viết gây tranh cãi này là trích đoạn từ The Creativity Challenge: How We Can Recapture American Innovation đó là tổng hợp các kết quả nghiên cứu. Tất cả nguồn đều được tìm thấy trong cuốn sách của cô.

Dịch từ aish.com/jw/s/Are-Jews-More-Creative-than-Asians.html