Friday, May 12, 2017

Sự tạo thành chữ Quốc ngữ

Đóng góp của Thiên Chúa giáo Người có công lao to lớn trong việc hình thành chữ Quốc Ngữ là Alexandre de Rhodes linh mục Công Giáo gốc Do Thái

Ths. Phạm Thị Thanh Huyền, Khoa Lịch sử, trường Đại học Sư phạm Hà Nội

Trích đoạn từ bài 'Một số đóng góp của Thiên Chúa giáo đối với văn hóa Việt Nam (thế kỷ 17 - đầu thế kỷ 20)'

Sự tạo thành chữ “Quốc ngữ”

Đây là một trong những đóng góp quan trọng nhất của các giáo sĩ đạo Thiên Chúa đối với văn hoá Việt Nam, tất nhiên đóng góp này nằm ngoài ý thức chủ quan của các nhà truyền đạo khi sáng tạo ra chữ Quốc ngữ.

Động cơ chủ yếu và trước hết của các giáo sĩ Thừa sai khi sáng tạo ra chữ Quốc ngữ là để phục vụ cho cuộc truyền giáo.

Xuất phát từ mục đích để hoạt động truyền giáo có hiệu quả nên các Thừa sai đã Latinh hoá tiếng Việt để tạo ra một loại văn tự mới đó là chữ Quốc ngữ.

Chữ Quốc ngữ ra đời chính xác vào thời gian nào, cho đến nay vẫn chưa xác định được, nhiều người cho rằng thời điểm sáng tạo ra chữ Quốc ngữ là khoảng từ năm 1620 đến năm 1651, công lao đầu tiên thuộc về các nhà truyền giáo dòng Tên. “Thời gian đầu, từ 1615 - 1663, chỉ có các nhà truyền giáo dòng Tên đến làm việc trong vùng đất Chúa Trịnh, Chúa Nguyễn, đã cùng nhau đóng góp vào công trình tạo ra chữ Quốc ngữ. Năm 1651 in sách Quốc ngữ. Sau đó còn nhiều công trình do nhiều người đã làm cho thứ chữ này hoàn chỉnh hơn, phổ biến hơn suốt từ thế kỷ XVII đến cuối thế kỷ XIX”.

Lúc đầu, chữ Quốc ngữ là thứ chữ ghi âm nhưng chưa định hình, chưa phản ánh một cách khoa học và trung thực cơ cấu ngữ âm của tiếng Việt, còn chịu ảnh hưởng sâu đậm tiếng nói và chữ viết của người Bồ Đào Nha, người Ý, người Pháp. Ví dụ: để ghi từ “sách”, người ta viết sayc, để ghi từ “nước mặn”, người ta viết nuocman, để ghi từ “ông nghè”, người ta viết ungue, ungué, ungné, ounghe, oungueh…. Hay người ta viết ũ để ghi vần ung (ví dụ cũ = cung), viết oũ để ghi vần ông, (ví dụ soũ = sông). Nhưng dần dần qua nhiều lần cải tiến, chữ Quốc ngữ đã đạt đến dạng hoàn chỉnh như ngày nay.

Cho đến nay, nhiều nhà nghiên cứu đã cho rằng người có công đầu tiên tạo ra chữ Quốc ngữ là Thừa sai Francisco de Pina, người Bồ Đào Nha. Pina sinh năm 1585 tại Guarda, gia nhập dòng Tên lúc 20 tuổi.

Ông đến Đàng Trong năm 1617, “là nhà truyền giáo đầu tiên biết Tiếng Việt, cũng là tu sĩ dòng Tên đầu tiên soạn một tập nhỏ về chính tả cùng các dấu thinh của tiếng Việt và năm 1622 bắt đầu soạn ngữ pháp tiếng Việt”.

Qua nghiên cứu cuốn sách “Công trình của một số nhà tiên phong Bồ Đào Nha trong lĩnh vực ngôn ngữ học Việt nam cho đến năm 1650” của Roland Jacque (nhà ngôn ngữ học người Pháp), Nguyễn Phước Tương cũng cho rằng “chúng ta có đủ cơ sở khoa học để kết luận rằng giáo sĩ dòng Tên đầu tiên có công trình phiên âm tiếng Việt thành chữ Quốc ngữ chậm nhất vào năm 1623, trước khi Alexandre de Rhodes đến Đàng Trong vào năm 1624, có tên gọi là “Nhập môn tiếng Đàng Ngoài” là Francisco de Pina”.

Sau Francisco de Pina, phải kể đến giáo sĩ Gaspar d’Amaral, người đã biên soạn cuốn “Từ điển Bồ - Việt” vào những năm 1636 - 1645, và giáo sĩ Antonia de Barbosa, ông đã biên soạn cuốn “Từ điển Việt - Bồ” trước khi Alexandre de Rhodes biên soạn và in cuốn “Từ điển Việt - Bồ - Latinh” vào năm 1651.

Nhưng người có công lao to lớn trong việc hình thành chữ Quốc ngữ đó chính là Alexandre de Rhodes (hay còn gọi là cha Đắc Lộ). Ông sinh năm 1593 tại tỉnh Avignon, nước Pháp, là người gốc Do Thái.

Năm 1612, Alexandre de Rhodes gia nhập vào dòng Tên ở Rôma, năm 1618, ông được thụ phong linh mục khi mới tròn 25 tuổi.

Những công trình đáng kể của Alexandre de Rhodes là “Từ điển Việt - Bồ - Latinh” (Dictionarum Anamiticum Lusitanum et Latinum) và cuốn “Phép giảng tám ngày” (Cathechimus). Cả hai cuốn đều được đúc chữ và ấn hành ở Rôma vào năm 1651. Có thể coi đây là hai cuốn sách đầu tiên được in bằng chữ Quốc ngữ. Cho đến cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX, cuốn từ điển của Alexandre de Rhodes vẫn được coi là tài liệu cơ bản để học tập và nghiên cứu tiếng Việt qua chữ Quốc ngữ.

Các thế hệ Thừa sai sau Alexandre de Rhodes tiếp tục theo gương ông biên soạn các loại từ điển tiếng Việt có bổ sung và ngày càng hoàn chỉnh hơn.

Đáng kể là năm 1838, một cuốn từ điển mới, đối chiếu hai thứ tiếng Việt - Latinh, Latinh - Việt có ghi thêm chữ Nôm bên cạnh chữ Quốc ngữ, được gọi là “Nam Việt dương hiệp tự vị” (Dictionarium anamitico latinum) do Giám mục Taberd biên soạn, được xuất bản ở Serampur - Ấn Độ. Về cơ bản, chữ Quốc ngữ trong cuốn từ điển này đã có dạng thức như chữ Quốc ngữ ngày nay. Đó là một trong những tài liệu cơ sở được dùng để nghiên cứu tiếng Việt thế kỷ XIX.

Tóm lại, chữ Quốc ngữ đã trải qua một quá trình liên tục cải tiến để được hoàn chỉnh như ngày nay, song chúng ta không thể phủ nhận công lao đầu tiên sáng tạo ra hình dạng của nó thuộc về các Thừa sai Thiên Chúa giáo, nhất là các thừa sai dòng Tên gốc Bồ Đào Nha.

Kể từ lúc ra đời cho tới cuối thế kỷ XIX, chữ Quốc ngữ đã dần dần được hoàn thiện từng bước nhằm phục vụ cho công cuộc truyền giáo như in kinh bổn và các sách giáo lý. Nó cũng là phương tiện ghi chép những hoạt động của các giáo sĩ và giáo dân. Như vậy, trải qua hơn hai thế kỷ sau khi ra đời, phạm vi sử dụng của chữ Quốc ngữ chỉ hạn chế trong khuôn khổ nhà thờ và giáo dân.

Cùng với việc xâm chiếm Nam Bộ, thực dân Pháp chủ trương mở rộng việc phổ biến chữ Quốc ngữ để đào tạo tay sai thừa hành và đẩy mạnh công cuộc tuyên truyền lừa bịp.

Sau khi thực dân Pháp đánh chiếm sáu tỉnh Nam Kỳ (1867), chữ Quốc ngữ được chính thức dạy ở các trường “tân học” ở Nam Kỳ.

Ngày 22/2/1869, Thống đốc Nam Kỳ ra Nghị định “Kể từ ngày 1 tháng 4 năm 1869, tất cả các giấy tờ chính thức đều sẽ được viết và công bố bằng mẫu tự Âu châu”. Chủ ý của chính sách này đã được Giám mục Puginier nói ra một cách rõ ràng: “Sau khi đạo Thiên Chúa đã được thiết lập, tôi coi việc bãi bỏ chữ Hán và thay thế trước tiên bằng chữ Quốc ngữ, sau bằng chữ Pháp, là một phương pháp rất chính trị, rất thực tế và rất hữu hiệu để lập ra ở Bắc kỳ một nước Pháp nhỏ ở Viễn Đông… Một khi đã đạt được kết quả to lớn đó, chúng ta đã đoạt được từ Trung Quốc phần lớn ảnh hưởng ở xứ An Nam và giới nho sĩ An Nam vốn rất thù ghét sự thiết lập thế lực Pháp sẽ bị tiêu diệt dần dần”.

Điều này đã gây ra sự ác cảm của các sĩ phu đối với chữ Quốc ngữ, vì họ cho rằng đấy là “chữ của Tây”, không học “abc” cũng có nghĩa là bất hợp tác với Tây.

Cụ Đồ Chiểu đã kiên quyết không cho con cái đi học thứ chữ này. Trong phong trào Cần Vương và các phong trào khác của văn thân sĩ phu yêu nước, chữ Hán và chữ Nôm được coi là những vũ khí tinh thần lợi hại để chống lại thực dân Pháp.

Tuy vậy, vào khoảng cuối thế kỷ XIX đã xuất hiện một số văn bản Quốc ngữ ghi lại các truyện Nôm như Kiều, Lục Vân Tiên, Quốc sử diễn ca và một số bản dịch tiếng Việt các sách kinh điển Nho học như Trung dung, Đại học in bằng chữ Quốc ngữ. Cũng trong thời gian này, một số tác phẩm viết bằng chữ Quốc ngữ đầu tiên đã được lưu hành như Chuyện đời xưa, Chuyện khôi hài, Chuyến đi thăm Bắc Kỳ năm Ất Hợi…

Sang đầu thế kỷ XX, thực dân Pháp tiếp tục đưa chữ Quốc ngữ vào các hoạt động nhà nước và xã hội nhằm phục vụ cho công cuộc bình định và cai trị của chính quyền thực dân. Một viên Thống sứ đã viết trong bản tường trình: “Việc truyền bá chữ Quốc ngữ chỉ có thể coi là rất có lợi cho sự mở rộng ảnh hưởng của chúng ta trong xứ này và làm cho quan hệ của chúng ta với người bản xứ được dễ dàng…”. Tuy nhiên, thực dân Pháp cũng chủ trương không nên xoá bỏ hoàn toàn chữ Nho vì cho rằng chữ Nho sẽ góp phần đắc lực trong việc duy trì tình trạng lạc hậu về mọi mặt của xã hội Việt Nam.

Đông Kinh Nghĩa Thục, một tổ chức vận động cách mạng, đã ra sức cổ động cho việc học tập và phổ biến chữ Quốc ngữ. Trong tập “Văn minh tân học sách” do Hội xuất bản năm 1907, khi nêu 6 việc cần phải xúc tiến để mở mang dân trí, việc sử dụng rộng rãi chữ Quốc ngữ được đặt lên hàng đầu.

Có thể nói, sự ra đời của chữ Quốc ngữ là một cuộc cách mạng trong lịch sử hình thành chữ viết của dân tộc ta. Trước khi chữ Quốc ngữ xuất hiện, ở Việt Nam đã tồn tại chữ Hán và chữ Nôm.

Trong suốt một thời gian dài, chữ Hán được sử dụng như một văn tự chính thức của nước ta. Mặc dù vậy, giữa chữ Hán và tiếng Việt vẫn có một sự khác biệt rất căn bản. Người Việt Nam chỉ viết và đọc chữ Hán nhưng không nói ngôn ngữ Hán. Các văn bản bằng chữ Hán nếu muốn cho người Việt hiểu được phải thông qua phiên dịch. Vì thế, người Việt đã sáng tạo ra chữ Nôm theo phương pháp hình thanh và hội ý của chữ Hán để ghi âm tiếng Việt. Nhưng chữ Nôm vẫn là một văn tự quá phức tạp, lại không được các triều đình phong kiến Việt Nam ủng hộ nên nó chưa đạt tới trình độ chuẩn xác và thống nhất cao giữa các địa phương.

Trong khi đó chữ Quốc ngữ lại có khả năng biểu thị chính xác bất kỳ âm thanh nào của tiếng Việt, cấu tạo lại đơn giản, dễ học, dễ nhớ, người Việt chỉ cần học 3 tháng là đã có thể sử dụng được chữ Quốc ngữ. Do đó, chữ Quốc ngữ ra đời đã kết thúc thời kỳ kéo dài sự cách biệt giữa tiếng Việt và chữ viết. Đây là lý do quan trọng nhất khiến cho chữ Quốc ngữ ngày càng được phổ biến và sử dụng rộng rãi và có vai trò to lớn trong sự phát triển văn hoá Việt nam các thời kỳ sau này. Nguồn http://www.bbc.com/vietnamese/specials/170_viet_studies/page9.shtml

Sunday, April 30, 2017

Tại sao có người Do Thái tóc Vàng ?

Tại sao có người Do Thái tóc Vàng ?
Giải thích thật sự về sự tồn tại của người Do Thái tóc Vàng là một chủ đề thảo luận sôi nổi giữa các nhà nhân chủng học. Một số người tin rằng đó là do khí hậu và môi trường (Pruner, Bey, Pritchard, Jacobs), trong khi những người khác cho rằng là do sự pha trộn chủng tộc, đặc biệt là sự thừa nhận dòng máu Aryan trong người Do Thái hiện đại (Broca, Virchow, Schimmer, Ripley, và những người khác).
Elkind cho thấy rằng màu tóc không phụ thuộc vào chỉ số hộp sọ. Các cuộc điều tra của Virchow cho thấy ở các tỉnh miền Đông hoặc tăm tối nhất (màu da màu tóc) của nước Đức có tỷ lệ các loại tóc vàng trong dân số Do Thái không giảm; Trong khi ở các tỉnh của Phổ, vốn có màu vàng rực rỡ, người Do Thái cho thấy tỷ lệ cao nhất của người Do Thái tóc Nâu, và ở Silesia, nơi mà dân ngoại có nước da màu tóc tối, người Do Thái lại có tỉ lệ cao về tóc vàng.
Điều này cũng đã được Schimmer trình bày ở Áo. Andree ("Zur Volkskunde der Juden," trang 34-40) chỉ ra rằng thực tế là những người do thái tóc Đỏ và người do thái tóc Vàng được tìm thấy ở Bắc Phi, Syria, Ả rập, Ba Tư, vân vân ... là bằng chứng cho thấy rằng việc kết hôn khác chủng tộc rất ít liên quan gì đến việc sản sinh ra các loại tóc vàng ở Đông Âu. Ông ta có ý kiến cho rằng những người dân tóc Vàng xuất hiện trong số những người Hebrew cổ đại và những người Do Thái hiện đại bao gồm dân do thái tóc Đỏ và dân do thái tóc Vàng là con cháu của họ. Luschan đồng ý theo quan điểm này.
Jacobs đã cho thấy rằng nước da đỏ hồng của người Do Thái do bị suy dinh dưỡng không chỉ có trong số những người Do Thái ở Châu Âu, mà cả những người ở Algiers, Tunis, Bosnia, Constantinople, Smyrna, và Bokhara, nơi sự hiện diện của dòng máu Aryan không thể thừa nhận.
Nguồn http://www.jewishencyclopedia.com/articles/7061-hair#anchor10
#nguoidothai #dandothai #dothai #tocvang #tocnau #tocdo #nhanchunghoc #chungtoc #chungtocdothai #dantocdothai

Friday, April 28, 2017

2.4 Triệu Người ISRAEL Đang Sống Trong Tình Trạng Khó Khăn Nghèo Khổ Để Tồn Tại

2.4 Triệu Người ISRAEL Đang Sống Trong Tình Trạng Khó Khăn Nghèo Khổ Để Tồn Tại

Một báo cáo về tình trạng nghèo khổ ở Israel đã cho thấy một tình hình thê thảm hơn với số người nghèo chiếm 31,9% tổng dân số Israel.
Một tuần sau khi các báo cáo nghèo khổ ở Viện bảo hiểm quốc gia (NII / Bituach Leumi) đã cho thấy một kết quả gây sốc ở Israel, Tổ chức Latet nghiên cứu về đói nghèo ở Israel vào thứ ba, là một phần của Báo cáo nghèo khổ hàng năm được thực hiển bởi trường đại học Tel Aviv-Yafo.

Báo cáo thường niên thứ hai dựa trên một chỉ số đa chiều. Trong khi các báo cáo nghèo chính thức xem xét cuộc sống dưới mức nghèo khổ, báo cáo Latet đo lường mức độ thiếu hụt trong dân số trong năm lĩnh vực: nhà ở, giáo dục, y tế, an ninh lương thực và khả năng đáp ứng chi phí sinh hoạt.

22% người Israel sống dưới mức nghèo khổ, theo báo cáo chính thức nghèo - nhưng những điểm báo cáo Latet đến một tỷ lệ hộ nghèo 31,9% tổng thể, với sự khác biệt bao gồm cả người Israel hơn 1 chút trên ngưỡng nghèo khổ nhưng vẫn phải vật lộn với cuộc sống để tồn tại. Nhìn chung, 2.624.000 người Israel sống từ tiền ngân phiếu, trong đó có 1 triệu trẻ em.

62% cha mẹ phải bỏ uống thuốc hoặc bỏ các dịch vụ chăm sóc y tế trong năm nay để hy sinh cho con cái của họ một cách thường xuyên (12%) hoặc đôi khi (50%). 37% phụ huynh hỗ trợ con em mình bằng cách nhịn ăn; 27% trẻ em báo cáo cảm thấy đói vào một số thời điểm trong năm qua. 14% số người thậm chí đã nhịn đói cả một ngày mà không có thức ăn, và / hoặc đã phải nhờ đến ăn xin hoặc trộm cắp thức ăn.

Người cao tuổi phải đối mặt với tình huống xấu nhất, với không ít hơn 90% số người được hỏi là người già không thể chi trả cho các dịch vụ chăm sóc lâu dài hoặc nhà dưỡng lão. 43% người nhận trợ cấp nhà nước nhưng bị suy dinh dưỡng; 58% phải đối mặt với rào cản pháp lý về nhà ở hoặc bị thu hồi nhà đất; 54% là không có nước hoặc điện.

47% người già được hỗ trợ bởi các công việc nhà nước và vẫn sống trong nghèo đói; trong số đó, 46% làm việc bán thời gian, và 71% kiếm được một mức lương là 4000 shekels mỗi tháng.

Latet sẽ trình bày báo cáo vào một bảng điều tra Knesset sau thứ ba, trong đó có Bộ trưởng Tài chính Moshe Kahlon (Kulanu) và Giám đốc Bộ Tài chính Shai Bavad.

Nguồn http://www.israelnationalnews.com/News/News.aspx/204937

Trẻ Em Do Thái Khó Nghèo

Má ơi
Vâng Hershy
Con đói bụng
Con muốn ăn gì ?
Một lát bánh mì
Bánh mì hết rồi
Có lẽ Tía sẽ mua về sớm thôi
Nhưng con muốn ăn ngay bây giờ
Con có muốn nói chuyện với Tía không ?
Dạ
Xin chào
Tía ơi, khi nào tía về nhà ?
Hershy ?
Tại sao con hỏi ?
Tại vì con đói bụng và không còn bánh mì nữa
Chơi ngoan ngoãn đi Tía sẽ về sớm thôi
Bao lâu là sớm thôi ?
Hershy
Để anh kể em nghe một câu chuyện thú vị
Dạ

Hàng ngàn trẻ em ở Israel đói bụng vào mỗi đêm
Những trẻ em này không đùa đâu
Tov V’chesed tổ chức hàng đầu của Israel trong việc kết thúc sự đau khổ của trẻ em nghèo và trẻ mồ côi
Phục vụ hơn 35000 trẻ em mỗi năm 
Tov V’chesed cần sự giúp đỡ của bạn
Để cung cấp dịch vụ của họ cho hàng ngàn trẻ em trong danh sách chờ đợi

Bài hát Khỏe Mạnh

Khỏe mạnh khỏe mạnh
Khỏe mạnh là có thể
Cà Rốt, Sữa, và Đậu Hà Lan
Táo, Ngô, và Nam Việt Quất
Tất cả mọi người tập thể dục với tôi
Đó là một điều răn để khỏe mạnh

Duỗi lên, duỗi xuống / Duỗi lên Duỗi xuống
Đó là tôi, ông chú của bạn, Moishy
Thật là vui để giữ gìn vóc dáng, và cố gắng để khỏe mạnh
Nhảy lên, nhảy xuống / Nhảy lên Nhảy xuống
Đó là tôi, ông chú của bạn, ông chú Moishy
Đó là điều tốt để di chuyển xung quanh, và ăn thức ăn lành mạnh

Khỏe mạnh khỏe mạnh
Khỏe mạnh là có thể
Cà Rốt, Sữa, và Đậu Hà Lan
Táo, Ngô, và Mạn Việt Quất
Tất cả mọi người tập thể dục với tôi
Đó là một điều răn để khỏe mạnh

Từ trên đầu xuống ngón chân
Mọi người đều biết khỏe mạnh là đường lối để đi
Tất cả mọi người tập thể dục với tôi
Đó là một điều răn để khỏe mạnh

Nhìn lên, nhìn xuống / Nhìn lên Nhìn xuống
Đó là tôi Đúng vậy Ông chú của bạn Ông chú Moishy
Rất nhiều thức ăn xung quanh gìn giữ chúng ta mạnh và khỏe
Duỗi lên, duỗi xuống / Duỗi lên Duỗi xuống
Đó là tôi, ông chú của bạn, ông chú Moishy
Thật là vui để giữ gìn vóc dáng, và cố gắng để khỏe mạnh

Khỏe mạnh khỏe mạnh
Khỏe mạnh là có thể
Cà Rốt, Sữa, và Đậu Hà Lan
Táo, Ngô, và Nam Việt Quất
Tất cả mọi người tập thể dục với tôi
Đó là một điều răn để khỏe mạnh

Khỏe mạnh khỏe mạnh
Khỏe mạnh dành cho tôi
Cà Rốt, Sữa, và Đậu Hà Lan
Táo, Ngô, và Nam Việt Quất
Tất cả mọi người tập thể dục với tôi
Đó là một điều răn để khỏe mạnh

Wednesday, April 19, 2017

Ông Chú Moishy

Healthy healthy
Healthy as can be
Carrot milk and pea
Apple corn and cranberry
Everybody exercises with me
It's a mitzvah to be healthy

Reach up, reach down
It's me your uncle, Moisy
It's fun to stay in shape and try to stay healthy
Jump up, jump down
It's me your uncle, uncle Moishy
It's nice to move around and eat food that are healthy

Healthy healthy
Healthy as can be
Carrot milk and pea
Apple corn and cranberry
Everybody exercises with me
It's a mitzvah to be healthy

From our heads way down to our toes
Everybody knows healthy is the way to go
Everybody exercises with me
It's a mitzvah to be healthy

Look up, look down
It's me that's right your uncle, uncle Moisy
It's so many food around that keep us strong and healthy
Reach up, reach down
It's me your uncle, uncle Moishy
It's fun to stay in shape and try to stay healthy

Healthy healthy
Healthy as can be
Carrot milk and pea
Apple corn and cranberry
Everybody exercises with me
It's a mitzvah to be healthy

Healthy healthy
Healthy is for me
Carrot milk and pea
Apple corn and cranberry
Everybody exercises with me
It's a mitzvah to be healthy

King of kings lyric

על הכל על הכל יתגדל
Everything everything will exalt
יתגדל ויתקדש וישתבח
Exalt and sanctify and praise
על הכל על הכל יתפאר
Everything everything will glory
ויתרומם ויתנשא
and exalt and extol
II

שמו של מלך מלכי המלכים הקדוש ברוך הוא
The name of the Supreme King of kings, the Holy One, blessed be He
III
מלכי המלכים הקדוש ברוך הוא
King of kings, the Holy One, blessed be He


שמעתי שהיו אומרים
I heard a saying
היו אומרים
a saying

אשרי מי
Blessed are those who
אשרי מי שבא לכאן
Blessed are those who come here
ותלמודו בידו
with their study in their hands


שיר ושבחה הלל וזמרה
Song and praise hymn and psalm
שיר ושבחה הלל וזמרה
Song and praise hymn and psalm
הבוחר בשירי זמרה
who delighteth in the songs of psalmody
שיר ושבחה הלל וזמרה
Song and praise hymn and psalm

ישתבח, ישתבח, שמך לעד
Praise, praise, to Your name forever
שמך לעד לעד מלכנו
to Your name forever forever our King
II




Source: lyricstranslate